Chuyện học xưa và nay: Vị đại khoa nối chí cha làm thầy chúa Trịnh
Không chỉ là trụ cột triều Lê, Tiến sĩ Nguyễn Hoàn còn là thầy dạy của chúa Trịnh Sâm. Được chúa rất mực tin tưởng, ông ra sức làm những việc ích nước lợi dân, sau trở thành vị Quốc sư nức danh thiên hạ.

Quy mô bề thế và sự vững chãi của Quốc Tử Giám có phần công sức rất lớn của Tiến sĩ Nguyễn Hoàn - khi ông giữ chức Tư nghiệp.
Nguyễn Hoàn là con trai thứ hai của Tiến sĩ Nguyễn Hiệu với bà Nguyễn Thị Huệ, quê gốc ở làng Lan Khê (sau đổi là Phương Khê), huyện Nông Cống (Thanh Hóa) (nay thuộc làng Phương Khê, Nông Trường, Triệu Sơn, Thanh Hóa). Ông sinh năm Quý Tỵ (1713) ở xứ Hàng Dầu, kinh thành Thăng Long.
Đều là thầy dạy chúa Trịnh
Sinh ra trong gia đình có truyền thống thi thư, ngay từ nhỏ Nguyễn Hoàn đã được cha dạy dỗ kèm cặp nên sớm nổi tiếng là thông minh, hiếu học, nhiều thầy dạy khen ông là kỳ tài hiếm có đương thời. Năm Nhâm Tý (1732), khi vừa 20 tuổi, ông đỗ Giải nguyên khoa thi Hương. Năm Quý Sửu (1733), thi Hội đỗ Tam trường. Cũng trong năm này, ông được bổ dụng làm Đại lý tự thừa. Năm Canh Thân (1740), ông được bổ giữ chức Tri phủ Thiên Phúc (xứ Kinh Bắc).
Năm Quý Hợi (1743), tức 8 năm sau khi cha ông là Tiến sĩ Nguyễn Hiệu qua đời, Nguyễn Hoàn tiếp tục tham gia ứng thí đỗ Hội nguyên; vào Đình thí đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi này do Hàn lâm viện Thừa chỉ Bạch Phấn Ưng vâng sắc soạn, có đoạn: “Bấy giờ, kẻ sĩ tới kinh dự thi không dưới hơn 2.000 người. Qua trường bốn, chọn hạng xuất sắc được bọn Nguyễn Hoàn 7 người.
Tháng 12 vào Điện thí, hoàng thượng đích thân ra đề thi văn sách, hỏi những việc lớn trong phép kinh luân thiên hạ. Ngày hôm sau, quan Độc quyển dâng quyển, hoàng thượng đích thân ngự lãm, định thứ tự cao thấp. Loa truyền người đỗ, bảng vàng nêu tên, ban cho áo mũ triều phục, yến Quỳnh hoa bạc, ơn huệ dồi dào. Lại sai quan bộ Công dựng đá đề danh tại trường Quốc Tử Giám”.
Sau khi thi đỗ, Tiến sĩ Nguyễn Hoàn được triều đình nhà Lê bổ chức Cấp sự trung Hộ khoa. Khi Trịnh Sâm ra ở ngôi Thế tử, chúa Trịnh Doanh sai Phủ doãn Phụng Thiên là Dương Công Chú và Cấp sự trung Nguyễn Hoàn giữ chức Tả - Hữu tư giảng có trách nhiệm dạy văn, còn Tạo sĩ Nguyễn Đình Thạch là thầy dạy võ.
Về điểm này, Nguyễn Hoàn rất giống với người cha là Tiến sĩ Nguyễn Hiệu – khi đều là thầy dạy chúa Trịnh. Sử chép, năm 1717, vì tin tưởng vào tài đức của Nguyễn Hiệu, chúa Trịnh giao ông dạy Thế tử Trịnh Giang (tức Trịnh Khương), phong cho Nguyễn Hiệu chức Tả tư giảng, song ân sủng mà chúa Trịnh ban cho Nguyễn Hiệu kém xa so với Nguyễn Hoàn.

Văn bia đề danh cho biết, Nguyễn Hoàn là một trong 7 người đỗ đại khoa trong khoa thi Quý Hợi (1743).
Năm Mậu Thìn (1748), Nguyễn Hoàn được bổ làm Thiêm sai Phủ liêu. Hai năm sau, khi tiến đánh cuộc nổi dậy của Nguyễn Danh Phương ở núi Ngọc Bội (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc), ông được chúa Trịnh Doanh giao trọng trách trông coi phủ chúa. Năm Nhâm Thân (1752), ông được giao nhiệm vụ phúc khảo kỳ thi Hương năm Tân Mùi (1751).
Năm Bính Tý (1756) trong vụ án Điển thân, vì tính nhân hậu, không nỡ kết tội nặng các phạm nhân nên Nguyễn Hoàn bị quở trách và giáng xuống làm Hàn lâm Hiệu thảo. Sau lại giữ chức trách phúc khảo kỳ thi Sĩ vọng. Khi Thế tử Trịnh Sâm được tấn phong làm Tiết chế mở phủ Lượng quốc, Giảng quan Nguyễn Hoàn làm “Thập châm” (mười bài châm) để khuyên răn dâng lên, được Trịnh Sâm khen.
Tháng 3 năm Mậu Tý (1768), Hữu tư giảng Nguyễn Hoàn dâng sách “Tiềm long thực lục”, lại tiến sách “Kim giám tập”, đồng thời ông được sai chép sách “Trí kính tập”. Cũng trong năm này, Trịnh Sâm phong cho thầy dạy của mình là Nguyễn Hoàn làm Quốc sư. Tước hiệu Quốc sư bắt đầu có từ Nguyễn Hoàn.

Năm 1771, Tư nghiệp Quốc Tử Giám Nguyễn Hoàn cho dựng bia “Hạ mã” để nhắc nhở dù là bậc công hầu hay khanh tướng, võng lọng hay ngựa xe, đều phải xuống ngựa biểu thị lòng tôn kính với các tiên hiền.
Mở mang Quốc Tử Giám
Tương truyền, vì tài năng, hơn nữa lại là thầy dạy của Trịnh Sâm nên Nguyễn Hoàn rất được chúa quý trọng, đến mức trong chuyến đi lễ yết kiến nhà Thái miếu và yết kiến vua Lê ở điện Vạn Thọ (Thanh Hóa) năm 1769, Trịnh Sâm đã đến nhà Nguyễn Hoàn chơi và ban ơn rất hậu cho ông. Theo “Đại Việt sử ký tục biên”, ông được ban cho một tòa dinh thự, ân sủng ấy chúa Trịnh dành riêng cho thầy dạy mà không phải vị quan nào cũng có.
Khi Trịnh Sâm được thăng lên là Đại nguyên soái tổng quốc chính, Thượng sự Tĩnh vương, Nguyễn Hoàn còn được cất nhắc làm Hữu thị lang Binh bộ. Đến tháng 5 năm Canh Dần (1770), chúa Trịnh đã cử Nguyễn Hoàn giữ chức Đô ngự sử, hàm chánh Tam phẩm và căn dặn ông rằng: “Ngự sử có trách nhiệm gương mẫu, các ngươi là kỳ cựu, ta chọn đã lâu, cho nên thăng vượt bậc. Phải nên hết lòng, hết sức làm cho các ty kính theo phép tắc”.
Cũng do có công phò tá, nên vào cuối năm này, trong đợt thăng thưởng cho các quan, Nguyễn Hoàn còn được chúa Trịnh cử giữ chức Thượng thư Công bộ, rồi Thượng thư Hình bộ; Lê Quý Đôn làm Phó đô ngự sử, Vũ Miên làm Thiêm đô ngự sử. Vì có công trong việc tu sửa và mở mang Văn Miếu - Quốc Tử Giám, nên cuối năm 1771, chúa Trịnh cho Nguyễn Hoàn vào chầu Kinh diên (nơi vua đọc sách) và cử ông giữ chức Tri Quốc Tử Giám.
Bắt đầu từ Nguyễn Hoàn, chức quan Tư nghiệp Quốc Tử giám mới được kiêm Kinh diên. Trong thời gian này Nguyễn Hoàn đã cho lập bia hạ mã ở cửa nhà Thái học, đào ao Bích Thủy trước nhà Thái học... Ngoài ra, ông còn tiến hành xây dựng lại cảnh quan của Quốc Tử Giám như mở đường, quy hoạch lại nhà dân ở xung quanh, trồng cây, lát đường... góp phần tạo nên một Quốc Tử Giám quy mô, bề thế và vững chãi cho đến ngày nay.
Đầu năm 1775, khi chúa Trịnh Sâm và Hoàng Ngũ Phúc nam chinh tiến đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong, đã giao cho Nguyễn Hoàn cùng Nguyễn Đình Thạch, Nguyễn Đình Huấn, Lê Quý Đôn lưu giữ kinh thành, cho tùy nghi thi hành mọi việc.

Tiến sĩ Nguyễn Hoàn 3 lần được thay vua làm lễ Tế Giao vào các năm 1775, 1777, 1783 (trong ảnh là Bảo vật quốc gia bia điện Nam Giao kinh thành Thăng Long lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia).
Xây dựng bộ Quốc sử triều Lê
Sống trong giai đoạn các chúa Trịnh quan tâm tới sử học, từng thành lập cơ quan chuyên trách sử học với tên gọi là Sử quán: Giữ việc ghi chép biên soạn sử sách. Từ việc nhà vua nói, làm và ưa chuộng những gì, đến các quan ty ngay – gian; chính sự hay - dở, nhân tài hơn kém, đều phải ghi chép thẳng thắn để lưu tâm mà làm gương. Điều này, trước đó chúa Trịnh Doanh đã có ban hành quy chế cụ thể, song phải 1⁄4 thế kỷ sau việc biên soạn Quốc sử mới chính thức được thực hiện.
Tháng 6/1775, Trịnh Sâm ban bổ các chức tổng tài và toản tu, hạ lệnh cho Ngô Thì Sĩ, Phạm Nguyễn Du, Ninh Tốn và Nguyễn Sá biên soạn Quốc sử; bổ dụng Bồi tụng Nguyễn Hoàn, Lê Quý Đôn, Phó đô ngự sử Vũ Miên chức tổng tài, chỉ đạo công tác biên soạn bộ “Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên”.
Bộ Quốc sử tục biên gồm 6 cuốn chép lịch sử giai đoạn hơn 60 năm từ niên hiệu Vĩnh Trị (1676) triều Lê Hy Tông đến triều vua Lê Ý Tông, niên hiệu Vĩnh Hựu. Quốc sử tục biên là phần nối tiếp bộ “Đại Việt sử ký toàn thư”. Điều đặc biệt là ông và con trai trưởng là Nguyễn Sá (Trạch) đều được lựa chọn để tham gia biên soạn bộ Quốc sử này. Đây cũng là một trong những trường hợp hiếm có của lịch sử phong kiến Việt Nam (sau này thời nhà Nguyễn có cha con Tiến sĩ Cao Xuân Dục và Cao Xuân Tiếu).
Vì những công lao cho đất nước nên vào năm 1776, Nguyễn Hoàn được phong chức Thái tử Thái bảo. Năm sau, ông thay chúa làm lễ Tế Giao (lần thứ hai). Vài tháng sau, ông xin về trí sĩ khi ở tuổi 65. Chúa Trịnh Sâm dù phê “tạm hứa cẩm toàn” (tạm cho mặc áo gấm về làng) nhưng vẫn không quên ghi rõ “trùng đăng hoàng các” (rồi lại ra làm Tể tướng), được thăng Thái phó, ban Quốc lão tham dự triều chính, lại cho đặt tiệc tại nơi ở, triều thần hội tiễn.

Nguyễn Hoàn, Lê Quý Đôn, Vũ Miên là 3 tổng tài trong việc biên soạn bộ “Đại việt sử ký tục biên”.
Vua Lê Hiển Tông và chúa Trịnh Sâm tặng một bài thơ lưu biệt. Về trí sĩ được ba ngày, triều đình lại triệu ông vào kinh làm “Phụng thị ngũ lão” (5 vị nguyên lão đại thần). Tháng Chín năm Kỷ Hợi (1779), ông xin chúa cho trí sĩ, đề cử Bồi tụng Phan Trọng Phiên làm Tham tụng. Nhân đó, chúa vinh phong ông làm Phụ quốc công thần.
Về trí sĩ, Nguyễn Hoàn lựa chọn Đa Sĩ (nay thuộc phường Kiến Hưng, quận Hà Đông, Hà Nội) làm nơi dưỡng già, bởi ông vẫn rất quan tâm đến thời cuộc, đến vận mệnh của đất nước. Nơi này gần với Thăng Long, sẽ thuận lợi để ông nắm bắt được thế cuộc.
Năm Nhâm Dần (1782), khi Trịnh Sâm sắp mất, theo đề xuất của Huy Quận công Hoàng Tố Lý, phủ chúa triệu Trịnh Kiều (chú của Trịnh Sâm) và Nguyễn Hoàn vào cùng nhận cố mệnh, lập Trịnh Cán làm Điện Đô vương cùng Đặng Thị Huệ trông coi chính sự, Nguyễn Hoàn làm Quốc sư. Khi kiêu binh làm loạn, giết Quận Huy bỏ Trịnh Cán lập Trịnh Tông nối ngôi chúa, Nguyễn Hoàn theo việc cũ của Ân vương Trịnh Doanh mà nói rằng: “Việc đã như thế, mặc kệ cho chư quân làm, tức là ủng hộ việc cho Trịnh Tông nhiếp chính”.
Năm Bính Ngọ (1786), khi Trịnh Tông bị bắt, ông cáo quan về làng. Sau lại được vua Lê Hiển Tông vời ra Thăng Long phục chức Tham tụng.
Năm Kỷ Dậu (1789), sau khi đại phá quân Thanh, Nguyễn Huệ vào thành Thăng Long và ra chiếu “chiêu hiền đãi sĩ” nhằm tập hợp và trọng dụng các sĩ phu Bắc Hà. Từ Đa Sĩ, Nguyễn Hoàn ra Thăng Long tiếp kiến, nhưng lấy lý do tuổi cao sức yếu, ông xin được trở về và được Quang Trung Nguyễn Huệ chấp thuận.
Năm 1792, Tiến sĩ Nguyễn Hoàn mất tại làng Đa Sĩ, thọ 80 tuổi. Mộ táng trong vườn thuộc xóm Bắc làng Đa Sĩ; sau cải táng sang làng Mậu Lương và đến năm Quý Mùi (1823), mộ ông được rời về Cồn Lốc, làng Phương Khê quê hương ông.
“Hổ phụ sinh hổ tử”, các con của Tiến sĩ Nguyễn Hoàn cũng là những người có học vấn cao, có nhiều cống hiến cho đất nước. Trong đó, người con cả Nguyễn Sá từng làm Toản tu việc soạn “Đại Việt sử ký tục biên” cùng Ngô Thì Sĩ, Phạm Nguyễn Du, Ninh Tốn.
Người con thứ là Nguyễn Khê lấy vợ là con gái Tiến sĩ Phan Huy Ích, làm quan tới chức Hoằng Tín đại phu, Quả Nghị tướng quân, Trung Thành môn Vệ úy xuất thân, Thanh Xuyên bá.
Người con trai thứ ba là Nguyễn Thiện, lấy vợ là con gái của Tế tửu Vũ Miên, làm các chức quan như người anh thứ 2, được ban tước Phúc Xuyên bá. Con trai thứ tư là Nguyễn Tín, lấy vợ là con gái của Tiến sĩ Nguyễn Hương, được ban tước Kim Lĩnh bá.
Năm 2020 đền thờ cha con Tiến sĩ Nguyễn Hiệu – Nguyễn Hoàn tại xã Nông Trường (Triệu Sơn, Thanh Hóa) được xếp hạng Di tích lịch sử, văn hóa cấp quốc gia. Hiện, đền thờ còn lưu giữ rất nhiều hiện vật quý giá, trong đó có bức trúc thư của vua Lê Hiển Tông năm 1775 được chạm rất tinh xảo, ngoài ra còn hệ thống câu đối, lư đá, sắc phong…
Tiến sĩ Nguyễn Hoàn có hai tác phẩm được lưu truyền, trong đó loại Kinh sử có tham gia “Quốc sử tục biên” gồm 6 quyển; loại Truyện ký có cuốn “Đăng khoa lục”, 3 quyển. Ông cũng tham gia hiệu chỉnh sách “Đỉnh khiết lịch triều đăng khoa lục”, soạn nhạc chương phần “Lương Mục vương”, soạn văn bia “Quỳnh Phúc tự bi ký”, nhuận sắc các văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Quý Mùi (1763), soạn văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Ất Mùi (1775) và khoa Mậu Tuất (1778). Ngoài ra, ông còn viết sách, làm thơ: Thập châm (10 bài châm), Tiềm long thực lục, Kim giám tập.