Cơ chế phối hợp để thúc đẩy hiệu quả Luật Địa chất và Khoáng sản

Ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam đang đứng trước giai đoạn bản lề, trước yêu cầu phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường và đảm bảo an sinh xã hội.

Khai thác khoáng sản. Ảnh: TTXVN

Khai thác khoáng sản. Ảnh: TTXVN

Với việc Luật Địa chất và khoáng sản năm 2024 đã có hiệu lực từ ngày 1/7/2025, ngành này đang được kỳ vọng sớm bước vào kỷ nguyên mới của sự minh bạch, hiệu quả và bền vững. Tuy nhiên, để Luật sớm đi vào cuộc sống và thực sự trở thành công cụ quản lý đắc lực, cần có sự đồng lòng, quyết tâm từ các cấp quản lý, doanh nghiệp và cộng đồng.

Theo Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Luật Địa chất và khoáng sản năm 2024 là văn bản pháp lý cao nhất, định hình toàn bộ khung khổ cho các hoạt động địa chất và khoáng sản. Luật thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả và tiết kiệm, tạo nền tảng vững chắc cho ngành có định hướng và tầm nhìn chiến lược.

Luật có nhiều điểm đổi mới mang tính đột phá, nổi bật là việc phân loại khoáng sản rõ ràng, với tầm nhìn chiến lược và quy hoạch đồng bộ. Đặc biệt, luật đã phân quyền mạnh mẽ cho các địa phương trong việc quản lý, cấp phép khai thác. Đây là một bước tiến quan trọng, giúp rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính và tăng cường tính chủ động, trách nhiệm của các cấp chính quyền cơ sở.

Mặc dù được kỳ vọng là cơ sở pháp lý để quản lý tài nguyên, Luật Địa chất và khoáng sản 2024 vẫn còn nhiều vấn đề cần được giải quyết trên thực tế.

Tuy nhiên, việc đầu tư công nghệ xử lý thải, máy móc hiện đại để đáp ứng các tiêu chuẩn mới đòi hỏi một khoản chi phí lớn, vượt quá khả năng tài chính của phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhiều đơn vị đang đứng trước lựa chọn hoặc phải vay vốn để nâng cấp, hoặc chấp nhận rủi ro bị loại khỏi cuộc chơi.

Theo ông Nguyễn Lộc R, mặc dù luật đã phân quyền cho địa phương, nhưng thủ tục hành chính vẫn còn phức tạp và chưa thực sự đồng bộ, việc xin cấp phép và thẩm định lại các dự án khai thác cũ theo Luật mới sẽ là một rào cản lớn, gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh. Cũng như nhiều doanh nghiệp, Thạch Nhất kỳ vọng Chính phủ sẽ có những chính sách hỗ trợ hoặc các cơ chế chuyển đổi mềm dẻo hơn để doanh nghiệp có đủ thời gian và nguồn lực để thích nghi.

Bà Nguyễn Thị Hiên, Cư dân xã Đông Hải, tỉnh Quảng Ninh chia sẻ, "Luật mới có đề cập đến việc bảo vệ môi trường, nhưng điều quan trọng là chúng tôi muốn được tham gia giám sát một cách thực chất, từ khâu đánh giá tác động môi trường ban đầu cho đến khi dự án đi vào hoạt động. Luật rất cần có cơ chế minh bạch và công khai để người dân nắm được thông tin, phản ánh kịp thời những vi phạm, tránh tình trạng “tiền trảm hậu tấu” như nhiều vụ việc đã xảy ra trước đây.”

Từ góc độ khoa học và pháp lý, TS. Phan Tùng Lâm, Trung tâm Trọng tài Thương mại Quốc tế Việt – Trung, cho rằng thách thức lớn nhất nằm ở tính đồng bộ của hệ thống pháp luật. Luật Địa chất và khoáng sản 2024 là một bước tiến vượt bậc, nhưng nó sẽ chỉ phát huy hiệu quả khi được liên kết một cách chặt chẽ với các văn bản pháp luật khác như Luật Đất đai, Luật Bảo vệ môi trường, và các quy định về đầu tư, xây dựng.

TS. Lâm phân tích, việc chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật có thể gây ra những lỗ hổng trong quản lý, tạo kẽ hở cho các hành vi vi phạm. Ví dụ, một dự án có thể được cấp phép khai thác khoáng sản nhưng lại vướng mắc trong khâu chuyển đổi mục đích sử dụng đất hoặc không đáp ứng được các tiêu chuẩn môi trường. Điều này không chỉ gây khó khăn cho doanh nghiệp mà còn làm giảm hiệu quả quản lý của Nhà nước. Vấn đề cốt lõi là cần phải có một cơ chế phối hợp liên ngành hiệu quả, và các văn bản hướng dẫn dưới luật phải được xây dựng một cách cẩn trọng và chi tiết để đảm bảo tính đồng bộ...

Từ những góp ý và quan điểm nêu trên, nhiều chuyên gia và giới nghiên cứu đều có chung nhận định, Luật Địa chất và Khoáng sản 2024 sẽ chỉ có thể phát huy hiệu quả khi các bên phối hợp chặt chẽ. Nhà nước cần hoàn thiện thể chế, ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật rõ ràng và tăng cường năng lực quản lý địa phương. Doanh nghiệp phải coi bảo vệ môi trường là yêu cầu bắt buộc, đi cùng với trách nhiệm xã hội. Trong khi đó, truyền thông và cộng đồng sẽ đóng vai trò là lực đẩy tạo ra tính minh bạch và giám sát xã hội.

Sự phối hợp này không chỉ dừng ở nguyên tắc mà cần được cụ thể hóa bằng cơ chế, cụ thể như việc tham gia thẩm định thiết kế, công khai dữ liệu quan trắc, tổ chức diễn tập ứng phó sự cố và công khai kết quả xử lý vi phạm.

Đồng thời, ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là các giải pháp xanh, sẽ là động lực để giảm thiểu tác động và tăng khả năng phục hồi môi trường sau khai thác. Khi cơ quan quản lý, doanh nghiệp, báo chí và cộng đồng cùng đồng hành, luật sẽ trở thành công cụ quản lý minh bạch, gắn khai thác với bảo vệ môi trường, đảm bảo lợi ích lâu dài cho đất nước và cho chính cộng đồng nơi có khoáng sản.

Ngọc Quỳnh/bnews/vnanet.vn

Nguồn Bnews: https://bnews.vn/co-che-phoi-hop-de-thuc-day-hieu-qua-luat-dia-chat-va-khoang-san/389101.html