Cơ chế quản lý giảng viên, đào tạo, NCKH dưới thời cố Bộ trưởng Trần Hồng Quân

Hi vọng các nhà quản lý giáo dục thuộc thế hệ tiếp nối sau thời Bộ trưởng Trần Hồng Quân hiểu rõ hơn về những nguồn gốc chủ trương chính sách về GDĐH.

LTS: Tiếp tục bài viết tưởng nhớ tới những công lao của Giáo sư, Tiến sĩ Trần Hồng Quân đối với nền giáo dục nước nhà khi tròn 1 năm ngày mất của thầy (25/8/2023-25/8/2024), Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam – cơ quan ngôn luận của Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam trân trọng gửi tới độc giả bài viết kết thúc chùm chủ đề ghi nhận những đóng góp của cố Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Trần Hồng Quân – một nhà đổi mới giáo dục thông qua các vấn đề cụ thể.

(Bài 1)

(Bài 2)

(Bài 3)

Vấn đề 4: Đào tạo sau đại học

Tại tham luận “đào tạo sau đại học và những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng” của Vụ Sau đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo) ở hội nghị đại học, cao đẳng toàn quốc mùa Hè năm 1992 nêu: Thực hiện Quyết định số 224-TTg ngày 24/5/1976 của Thủ tướng Chính phủ về việc đào tạo trên đại học ở trong nước, ngành đại học trong nước những năm qua đã cố gắng triển khai công tác đào tạo sau đại học để có được những cán bộ có trình độ khoa học cơ bản vững, nắm được kiến thức hiện đại của một ngành khoa học kỹ thuật, có năng lực độc lập nghiên cứu khoa học, kỹ thuật và năng lực giảng dạy ở bậc đại học, biết hướng dẫn nghiên cứu khoa học kỹ thuật ở một mức độ nhất định.

Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII đã nêu rõ: Trước mắt phải đào tạo cán bộ nhiều trình độ, đặc biệt là cán bộ quản lý, nhà kinh doanh, chuyên gia khoa học và công nghệ, chú ý phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài. Đồng thời báo cáo cũng nhấn mạnh, đổi mới nhanh cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ phù hợp với nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn chặt sự phát triển các lĩnh vực này với sản xuất và các mục tiêu kinh tế - xã hội.

Đại hội VII đã đặt ra cho công tác đào tạo sau đại học những nhiệm vụ đổi mới cấp thiết.

Để có những biện pháp đổi mới hữu hiệu, cùng hãy nhìn lại những đặc điểm căn bản trong công tác đào tạo trên đại học những năm trước đó.

Những đặc điểm trong đào tạo trên đại học ở nước ta trước năm 1992: Nước ta đã hình thành một mạng lưới đào tạo nghiên cứu sinh từ Bắc đến Nam bao gồm 75 cơ sở đào tạo, trong đó có 35 trường đại học và 40 Viện nghiên cứu khoa học.

Gần 1.300 bằng phó tiến sĩ và 11 bằng tiến sĩ khoa học được cấp trong thời gian 15 năm đào tạo trên đại học ở nước ta, đã thể hiện toàn bộ sự cố gắng của ngành. Rất nhiều người trong số đó đã được Nhà nước phong chức danh giáo sư và phó giáo sư, một số khác là những con chim đầu đàn trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ và quản lý. Đội ngũ này đã có đóng góp trong việc phát triển kinh tế - xã hội.

Từ những năm 70 và đặc biệt trong những năm 80 của thế kỉ XX, chúng ta đã hết sức tập trung mọi khả năng để tự lực đào tạo cán bộ có trình độ trên đại học trong những ngành cần thiết và cố gắng bảo đảm được chất lượng đào tạo. Nhiều người nhận học vị phó tiến sĩ trong nước đã bảo vệ được học vị tiến sĩ ở nước ngoài và nhận giải thưởng quốc tế. Nhờ quán triệt tinh thần tự lực tự cường của Đảng trong xây dựng đất nước mà ngày nay việc đào tạo sau đại học của chúng ta đang ổn định và từng bước phát triển.

Tuy nhiên, việc đào tạo sau đại học của chúng ta trong suốt quá trình hình thành và phát triển vẫn giữ nguyên mô hình đó là việc đào tạo theo chuyên ngành hẹp, chú trọng luận án nhưng còn coi nhẹ việc bồi dưỡng kiến thức cơ bản, cơ sở và chuyên ngành. Đây là điểm mấu chốt cần được đổi mới trong đào tạo nghiên cứu sinh.

Mặt khác, việc đào tạo còn mang tính bao cấp, mà chưa chuẩn bị cho con người hoạt động trong cơ chế thị trường của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Con người chưa năng động trong việc định hướng những hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ của mình với các mục tiêu sản xuất, kinh tế -xã hội.

Hình thức đào tạo khá đa dạng từ tập trung, tại chức, nghiên cứu sinh ngắn hạn và hình thức xét công nhận học vị thông qua một tập hợp công trình đã công bố. Mỗi hình thức đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng.

Đơn cử, nghiên cứu sinh chính quy (tập trung và tại chức) được bồi dưỡng một số kiến thức cơ bản, cơ sở và chuyên ngành thông qua thi tuyển và các môn thi tối thiểu; tuy nhiên khả năng tự nghiên cứu và sáng tạo còn hạn chế so với nghiên cứu sinh ngắn hạn.

Ngược lại, nghiên cứu sinh ngắn hạn lại không có nhiều thời gian dành cho việc bổ túc và nâng cao kiến thức cơ sở cũng như chuyên ngành.

Một số vấn đề đáng chú ý là có một số lượng không nhỏ nghiên cứu sinh hệ chính quy không hoàn thành kế hoạch học tập đúng thời hạn

Ngoài ra, còn nhiều chuyên ngành chưa đủ khả năng đào tạo nghiên cứu sinh và số lượng nghiên cứu sinh được đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu. Lúc đó đào tạo được khoảng 200 phó tiến sĩ/năm tức là chỉ bù được phần nào lượng cán bộ có học vị hết tuổi công tác. Trong khi đó, theo dự tính của Ủy ban khoa học Nhà nước, đến năm 2000 nhu cầu về cán bộ có trình độ cao (tiến sĩ, phó tiến sĩ) là khoảng 14.000 người.

Điều này đòi hỏi cần có những đổi mới nhanh chóng về quy mô đào tạo, nội dung và đảm bảo chất lượng đào tạo mới có thể đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước.

 Ảnh minh họa: H.A

Ảnh minh họa: H.A

Những biện pháp nhằm đổi mới quá trình đào tạo sau đại học: Từ tình hình thực tiễn, Vụ Sau đại học đề xuất những biện pháp cụ thể nhằm đổi mới quá trình đào tạo sau đại học để gắn chặt hơn nữa sự phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ và nhu cầu của kinh tế thị trường nhiều thành phần.

Biện pháp đầu tiên là tập trung mọi cố gắng của Bộ và các trường đại học, Viện nghiên cứu khoa học (đã hoặc sắp mở cao học) xây dựng nội dung, chương trình học tập đảm bảo đúng mục tiêu đào tạo phù hợp với những đổi mới của kinh tế - xã hội nước ta và hợp với xu thế của các nước trên thế giới và khu vực trong việc đào tạo cao học.

Do đó nhiều cơ sở giáo dục đại học kiến nghị rằng nhất thiết phải qua cao học trước khi vào bậc nghiên cứu sinh. Điều này cũng phù hợp với xu hướng đào tạo của các nước. Vì vậy, trước mắt cần phải tăng khối lượng các môn học bổ túc kiến thức của nghiên cứu sinh cho tương đương với khối lượng học tập cao học.

Biện pháp thứ hai là xây dựng một danh mục các chuyên ngành nhằm bảo đảm diện đào tạo rộng, liên thông giữa đại học, cao học và nghiên cứu sinh, tạo ra năng lực hoạt động trên bình diện rộng, còn việc làm luận án phó tiến sĩ thì đi sâu vào một đề tài hẹp.

Ngoài ra, cần tạo điều kiện để việc chuyển đổi ngành từ đại học lên cao học hoặc nghiên cứu sinh cho hợp lý nhằm phát huy năng lực công tác trong những lĩnh vực khoa học lân cận hoặc liên ngành.

Biện pháp thứ ba là tập trung lực lượng cán bộ có năng lực vào đào tạo cao học và nghiên cứu sinh.

Việc xác định tập thể hướng dẫn phải được xem xét kỹ lưỡng để có hiệu quả và bảo đảm thời hạn. Tập thể hướng dẫn phải có tính năng động, không chỉ uyên bác trong khoa học mà phải biết giúp nghiên cứu sinh tổ chức thực hiện, để hoàn thành công trình có chất lượng và đúng thời hạn.

Biện pháp thứ tư làbên cạnh việc tập trung lực lượng cán bộ cho đào tạo, cần chú ý tới những chuyên ngành trọng điểm. Biện pháp này gắn liền với vấn đề quy hoạch và liên kết đào tạo giữa các trường đại học và Viện nghiên cứu khoa học nhằm tập trung ưu thế của trường và Viện cho việc đào tạo những chuyên ngành mũi nhọn, có ý nghĩa trọng điểm trong phát triển khoa học và kinh tế.Đề tài luận án phó tiến sĩ hoặc tiểu luận tốt nghiệp cao học phải gắn liền với những chương trình trọng điểm của Nhà nước, của Bộ, ngành.

Biện pháp thứ năm là phải tăng cường cơ sở vật chất cho việc đào tạo sau đại học. Đây là nhiệm vụ khó khăn trong tình hình hiện tại nhưng vẫn phải cố gắng đầu tư bằng mọi cách, không chỉ từ nguồn kinh phí của Nhà nước, mà còn phải được tích lũy từ nguồn tự có của cơ sở đào tạo.

Bằng cố gắng của mình, Nhà nước đã dành một khối lượng kinh phí tạm đủ chi phí cho đào tạo 1 nghiên cứu sinh hoặc học viên cao học, nhưng chưa đầu tư kinh phí để trang bị những thiết bị cần thiết cho thực nghiệm, tăng cường nguồn thông tin, tư liệu mới, cập nhật nhằm phục vụ đào tạo có chất lượng.

Biện pháp thứ sáu là những vấn đề quản lý. Ở cấp độ nhà nước thì những quy chế quản lý sẽ mềm mại, nhưng thủ tục sẽ giản lược đến mức tối đa, không thể có một chút phiền hà nào, tuy nhiên không vì thế mà buông lỏng, để có những ảnh hưởng xấu đến chất lượng.

Ở cấp cơ sở đào tạo (trường đại học, viện nghiên cứu khoa học) cần chú trọng vào những khâu chủ chốt như tuyển chọn, xác định đề tài, tập thể hướng dẫn và quản lý tốt việc học tập và nghiên cứu của nghiên cứu sinh.

Cần kiện toàn tổ chức để đảm bảo nắm vững tình hình học tập, hoàn thành luận án của học viên về thủ tục học tập của học viên, nghiên cứu sinh, không để học viên, nghiên cứu sinh làm thay công việc của cán bộ chuyên trách. Việc này cũng góp phần làm tăng tính khách quan của quá trình đánh giá kết quả học tập cũng như việc làm luận án nghiên cứu sinh.

Mặt khác, cần bảo đảm và tăng cường tính khách quan của Hội đồng chấm luận án phó tiến sĩ hoặc tiểu luận tốt nghiệp cao học, nhằm đánh giá đúng chất lượng công trình.

Biện pháp thứ bảy là tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế. Các học bổng mà các nước trên thế giới có thể dành cho chúng ta, sẽ giúp chúng ta đào tạo được một số cán bộ ở những nước tiên tiến, bảo đảm được sự giao lưu và tiếp cận về khoa học của ta với thế giới và bổ sung lượng cán bộ khoa học của ta.

Biện pháp thứ tám là cần có chính sách khuyến khích người dạy và người đi học và những chính sách đặc biệt đối với người có thành tích và tài năng như việc dành một số chỉ tiêu đi thực tập nước ngoài để nâng cao trình độ khoa học, nâng lương, khen thưởng bằng hiện vật…

 Ảnh minh họa: USTH

Ảnh minh họa: USTH

Vấn đề 5: Đa dạng hóa các loại hình đào tạo đại học

Ngày 27/3/1993 tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Trần Hồng Quân đã họp với một số Hiệu trưởng đại học (Tổng hợp, Kinh tế, Kinh tế Tài chính Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh; Xây dựng Hà Nội; Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh) và 2 Viện đào tạo mở rộng I và II để giải quyết một số vấn đề phát sinh khi chấn chỉnh hệ thống đào tạo mở rộng.

Sau khi nghe các trường phản ánh tình hình thực hiện Thông tư 30/ĐH của Bộ về tiến trình chấn chỉnh hệ đào tạo mở rộng tại các trường đại học và một số vấn đề này, Bộ trưởng Trần Hồng Quân đã đi đến một số kết luận (trích theo thông báo một số kết luận của Bộ trưởng Trần Hồng Quân tại cuộc họp về chấn chỉnh hệ thống đào tạo mở rộng và thành lập 1 trường đại học Mở ký ngày 1/4/1993) như sau:

Thứ nhất, các trường đã tỏ sự nhất trí với chủ trương của Bộ về việc chấn chỉnh hệ đào tạo đại học mở rộng theo tinh thần vẫn tiếp tục tăng quy mô nhưng đảm bảo chất lượng đào tạo đại học.

Thứ hai, khẳng định chủ trương từ năm học 1993-1994 các trường sẽ tuyển sinh đại học vào chỉ một hệ đào tạo chính quy chứ không phải là 2 hệ chính quy và mở rộng. Quy mô tuyển sinh vào mỗi trường được xác định theo tinh thần khai thác hết năng lực của trường, dựa vào nhu cầu của xã hội và khả năng nguồn tuyển sinh. Chỉ tiêu tuyển sinh do các trường đề nghị là chính, khi duyệt Bộ sẽ chỉ điều chỉnh những trường hợp mà số lượng đề xuất quá xa đối với khả năng của trường và quy định điểm tuyển tối thiểu để đảm bảo chất lượng.

Thứ ba, các trường có thể tổ chức đào tạo đại học theo 2 phương thức khác nhau: học tập trung toàn thời gian (full-time) và học bán thời gian (part-time). Sinh viên theo 2 phương thức này phải học cùng một chương trình, được đánh giá theo cùng một chuẩn và nói chung phải cùng theo một quy trình tuyển sinh.

Đối với sinh viên học bán thời gian trình độ đầu vào có thể chấp nhận thấp hơn chút ít, không có yêu cầu cứng về tuổi, việc tổ chức phương thức học tập và bố trí thời gian học tập phải đủ mềm dẻo, một số trường đại học đặc biệt có đông giáo chức và nhiều ngành nghề đào tạo có nhu cầu lớn trong một vài năm trước mắt có thể tuyển sinh riêng cho đối tượng học sinh bán thời gian cho đến khi hình thành các đại học mở chịu trách nhiệm chính về phương thức đào tạo này (trường chỉ được tuyển khi có quyết định cho phép của Bộ). Việc tuyển sinh này phải được thực hiện theo quy chế tuyển sinh quốc gia riêng mà Bộ sẽ công bố. Như vậy, trong tương lai Bộ sẽ nghiên cứu đề ra những quy định về quản lý chất lượng để dù theo 2 phương thức học khác nhau nhưng sinh viên toàn thời gian và bán thời gian khi tốt nghiệp sẽ được cấp cùng một loại bằng của hệ đào tạo chính quy.

Thứ tư, trong hoạt động của Viện đào tạo mở rộng 2, bên cạnh ưu điểm là năng động, mở ra một cơ chế mới cần hoàn thiện để phát triển, đã làm nảy sinh một số vấn đề về quản lý, về chất lượng đào tạo cũng như về quan hệ giữa các trường trong việc sử dụng đội ngũ cán bộ giảng dạy của nhau. Sắp tới các bộ phận chức năng của Bộ sẽ khẩn trương cùng với 2 Viện đào tạo mở rộng xây dựng lại tổ chức và định rõ chức năng, phương thức hoạt động của 2 Viện này theo hướng hình thành 2 trường đại học mở nhằm đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của xã hội, tạo cơ hội cho nhiều người được tiếp thu nền giáo dục đại học.

Để xây dựng quy chế của các trường đại học mở cần phối hợp tốt giữa các Vụ của Bộ. Trong khi đó Vụ Đại học cần tổ chức việc đánh giá chất lượng giảng dạy các ngành đào tạo hiện có của Viện đào tạo mở rộng 2 để chuẩn bị quyết định của Bộ cho phép cấp bằng đối với những ngành đào tạo đủ điều kiện.

Vấn đề 6: Đổi mới tuyển sinh đại học

Tham luận của Vụ Học sinh – Sinh viên (Bộ Giáo dục và Đào tạo) tại hội nghị đại học, cao đẳng toàn quốc mùa Hè năm 1993 về “tiếp tục đổi mới công tác tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng” nêu:

Từ năm học 1993-1994 chỉ tiêu tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng, chủ yếu theo đề nghị của trường, căn cứ khả năng của từng trường, nhu cầu của xã hội và trình độ của thí sinh. Đã xây dựng được cơ chế để chỉ tiêu tuyển sinh không phụ thuộc vào số suất học bổng do ngân sách nhà nước đài thọ. Với cơ chế này có thể tăng đáng kể số học bổng cho một số trường, tạo ra sức thu hút vào một số ngành nghề như khối sư phạm, điều tra cơ bản, lâm nghiệp… và giảm bớt số học bổng ở những ngành đang hấp dẫn người học như tin học, điện tử…

Để mở rộng chỉ tiêu tuyển sinh phải xây dựng một quan niệm mới về ký túc xá: không phải cứ vào đại học là đương nhiên phải được xếp vào ở ký túc xá không mất tiền, mà người đi học phải tự lo việc ở. Nhà trường với khả năng của mình sẽ tạo điều kiện tối đa cho các sinh viên ở xa trường, nhất là con em các gia đình thuộc chính sách xã hội vào ở nội trú. Bằng cách đó nhiều trường mới đỡ bị sức ép xã hội khi mở rộng chỉ tiêu tuyển sinh.

Từng bước sử dụng một phần kết quả đánh giá ở bậc học dưới trong khi tuyển vào cấp, bậc học trên góp phần tạo ra động lực học tập trong học sinh phổ thông.

Đối với những học sinh đạt giải trong kỳ thi học sinh giỏi toàn quốc được tuyển thẳng vào các trường khối sư phạm hoặc được cộng điểm nếu thi vào các trường không thuộc khối sư phạm. Từ năm học 1993-1994 những học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học đạt loại giỏi được cộng thêm điểm thưởng vào tổng số điểm các môn thi vào trường đại học, cao đẳng.

Mặc dù vậy trong kỳ tuyển sinh năm học 1993-1994 vẫn còn một số mặt tồn tại cần chấn chỉnh, chủ yếu là ở khâu tổ chức coi thi. Vì lẽ đó, Vụ Học sinh – Sinh viên cho rằng cần:

Thứ nhất, tổng kết các loại sai phạm quy chế tuyển sinh trong các kỳ thi vừa qua, tìm hiểu phân tích nguyên nhân và tác hại, gửi tới các trường để liên hệ rút kinh nghiệm. Qui định trách nhiệm và quyền hạn xử lý nghiêm tại chỗ đối với cán bộ coi thi vi phạm qui chế.

Thứ hai, tăng cường công tác thanh tra để duy trì và giữ vững kỷ cương, thực hiện nghiêm túc Quy chế tuyển sinh để xã hội không còn cớ nói về tiêu cực trong công tác tuyển sinh.

Thứ ba, tiếp tục tu chỉnh bộ đề thi để bảo đảm sự liên thông, kế thừa về trình độ kiến thức giữa bậc phổ thông trung học và đại học, cao đẳng. Hoàn chỉnh Quy chế để hạn chế hơn nữa mặt “tiêu cực” có thể có trong việc sử dụng bộ đề có hướng dẫn giải.

Thứ tư, tìm thêm biện pháp hữu hiệu phục vụ chủ trương mở rộng qui mô đào tạo, quy trình đào tạo mới và thí điểm phân ban trung học.

Thứ năm, trên cơ sở các cụm liên kết sẽ hình thành, nghiên cứu các cách giao chỉ tiêu tuyển sinh vào giai đoạn I, giai đoạn II.

Thứ sáu, tổ chức thí điểm xây dựng qui chế cho một, hai trường khối tổng hợp không thuộc diện trọng điểm quốc gia có thể tuyển thẳng thí sinh vào trường theo các hình thức: Căn cứ vào kết quả đánh giá lớp cuối cấp tuyển thẳng những học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học từ loại khá trở lên (dựa vào học bạ và kết quả thi tốt nghiệp phổ thông trung học); Ghi danh; Vừa ghi danh, vừa thi (đối với diện không được tuyển thẳng).

Thứ bảy, nghiên cứu thay đổi một số môn thi đối với các trường. Chuẩn bị các điều kiện để những năm tới có thể nêu ra chủ trương khuyến khích thi 2 môn quan trọng là tiếng Việt và ngoại ngữ và chọn thêm một trong hai môn cơ bản.

Thứ tám, nghiên cứu thí điểm việc dùng kỹ thuật trắc nghiệm trong tuyển sinh, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác sinh viên trong tình hình mới.

Vấn đề 7: Hoạt động nghiên cứu khoa học và lao động sản xuất

Từ thực tế hoạt động lao động sản xuất, hợp đồng khoa học kỹ thuật của nhiều trường gặp những khó khăn chưa được tháo gỡ. Hầu hết các trường, doanh số hợp đồng khoa học kỹ thuật 6 tháng đầu năm 1993 giảm sút nghiêm trọng, nhiều trường chưa được các cơ quan có trách nhiệm cấp giấy phép để triển khai công việc lao động sản xuất. Vì vậy, tại hội nghị đại học, cao đẳng toàn quốc mùa Hè năm 1993, Vụ Khoa học Kỹ thuật (Bộ Giáo dục và Đào tạo) có một số kiến nghị về nghiên cứu khoa học và lao động sản xuất trong trường học.

Trong đó, Vụ nhấn mạnh đến các loại hình sản xuất kinh doanh trong trường như sau:

Về loại hình doanh nghiệp trường học: Là đơn vị sản xuất kinh doanh có đội ngũ công nhân chuyên trách hoặc hợp đồng dài hạn, có mặt hàng sản xuất ổn định do trường quản lý. Bộ chủ quản không cấp vốn pháp định. Vốn kinh doanh là vốn tự có của trường. Bộ chủ quản xét, ra quyết định thành lập. Đơn vị trực tiếp quản lý kinh doanh là trường học. Có con dấu và tài khoản riêng, có quyền lợi và nghĩa vụ như một doanh nghiệp Nhà nước, phải đăng ký kinh doanh sản xuất. Có tư cách pháp nhân và bình đẳng trước pháp luật. Trong hoạt động phải tuân thủ các chế độ quản lý kinh tế của Nhà nước.

Về loại hình liên hiệp hoặc trung tâm nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ: Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thành lập và được Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường cấp giấy phép hoạt động cho nhiều trung tâm nghiên cứu và triển khai công nghệ. Tuy nhiên, theo quy định của Nhà nước, các đơn vị trên, trong lĩnh vực triển khai công nghệ mới chỉ được sản xuất đơn chiếc và số lượng nhỏ.

Để phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, người nghiên cứu cần thiết phải chịu trách nhiệm đến cùng với sản xuất, thực hiện các hợp đồng khoa học kỹ thuật theo phương thức “Chìa khóa trao tay”. Mặt khác, để khuyến khích các trường liên kết giữa đào tạo – nghiên cứu – sản xuất, gắn nhà trường với xã hội, đề nghị Nhà nước mở rộng chức năng và phạm vi triển khai công nghệ cho các trung tâm nghiên cứu khoa học ở các trường học. Nhà nước cho phép các đơn vị nghiên cứu khoa học được triển khai sản xuất ở quy mô vừa để áp dụng các kết quả nghiên cứu vào sản xuất, được cấp giấy phép hành nghề và tham gia đấu thầu các công trình. Trong hoạt động các trung tâm phải tuân thủ các chế độ quản lý kinh tế của Nhà nước.

Chế độ thuế trong hoạt động lao động sản xuất: Hoạt động lao động sản xuất và triển khai công nghệ trong nhà trường là hoạt động của một đơn vị sự nghiệp đào tạo có thu. Do đó đề nghị Nhà nước miễn thuế lợi tức, thu thuế doanh thu nhưng cấp lại đầy đủ 100%. Phần thuế được cấp lại sẽ không phải trừ vào ngân sách cấp cho trường và để dùng bổ sung vào ngân sách của trường để tu sửa trường sở, duy trì, phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo của trường.

Vấn đề 8: Công tác tổ chức – quản lý – nhân sự trường đại học, cao đẳng

Theo đánh giá của Vụ Giáo viên (Bộ Giáo dục và Đào tạo) tại hội nghị đại học, cao đẳng toàn quốc mùa Hè năm 1992 cho thấy, cơ chế quản lý, sử dụng cán bộ giáo dục đại học bộc lộ nhiều điểm lạc hậu: không phát huy hết tiềm năng cả đội ngũ và từng cá nhân; không kích thích sự phấn đấu trong chuyên môn, gây tâm lí dựa dẫm, cách làm việc tắc trách; tạo ra sự quản lý khép kín, xơ cứng, thiếu mềm dẻo linh hoạt, không sàng lọc được dễ dàng và thường xuyên những người yếu kém, làm cho biên chế ngày càng đầy ứ, cồng kềnh, hết khả năng tiếp nhận lớp trẻ.

Cơ chế đó ngày càng tỏ ra không thích hợp, thậm chí còn cản trở công cuộc đổi mới của ngành đại học cũng như công cuộc đổi mới của toàn xã hội.

Để phù hợp với chủ trương đổi mới quản lý kinh tế xã hội được khẳng định tại Đại hội Đảng lần thứ VI và VIII, để phục vụ yêu cầu cải cách qui trình, nội dung và phương pháp đào tạo ở đại học, chúng ta cần xây dựng cách quản lý, sử dụng cán bộ giáo dục theo hướng:

Tăng quyền tự quản cho trường đại học, tạo sự quản lý mềm dẻo, linh hoạt, sự tự sàng lọc dễ dàng, thường xuyên những người yếu kém, giảm nhẹ gánh nặng biên chế và mở rộng cửa cho những sinh viên ưu tú đi vào con đường khoa học.

Tạo quyền tự chủ cho người cán bộ giáo dục, phát huy tiềm năng của từng người để người giỏi được giảng dạy nhiều hơn và ở nhiều trường khác nhau, do đó có thu nhập cao và đời sống khá, thu hút các cán bộ khoa học kĩ thuật, các nhà quản lý, kinh doanh giỏi… ngoài xã hội tham gia giảng dạy ở trường đại học.

Chế độ hợp đồng giảng dạy và nghiên cứu khoa học là cách quản lý và sử dụng cán bộ giáo dục phù hợp với các phương hướng này. Bởi thực hiện chế độ hợp đồng giảng dạy là tạo điều kiện để cá nhân người cán bộ giáo dục nghiên cứu có toàn quyền quyết định khối lượng công việc nhận làm, mức thu nhập của bản thân và chịu trách nhiệm về chất lượng giảng dạy, đào tạo, nghiên cứu khoa học, về thời hạn hoàn thành công việc. Thực hiện chế độ hợp đồng giúp cho cơ sở đào tạo đại học – với tư cách người nêu ra yêu cầu của việc đào tạo (số lượng, chất lượng, các ngành, nghề đào tạo…) được toàn quyền lựa chọn những người ưu tú, các thầy giáo giỏi, các nhà khoa học, các nhà quản lý kinh doanh giỏi… để kí hợp đồng. Do đó, chất lượng đào tạo có điều kiện để nâng lên.

Quản lý và sử dụng cán bộ giáo dục theo chế độ hợp đồng giảng dạy và nghiên cứu khoa học gắn với việc tổ chức sắp xếp lại các trường đại học. Lúc đó, ở các trường công lập chỉ còn một bộ phận nhỏ (chủ yếu là bộ khung của bộ máy hành chính, giảng dạy của nhà trường) là thuộc biên chế cơ hữu. Đại đa số các cán bộ giáo dục cũng như nhân viên trong trường sẽ chuyển từ chế độ biên chế suốt đời sang chế độ hợp đồng giảng dạy có thời hạn. Việc làm, thu nhập, đời sống của họ gắn chặt với việc hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy của họ trong năm học trước.

Chế độ hợp đồng giảng dạy cho phép luôn luôn tạo được sự tương ứng giữa khối lượng công việc giảng dạy với số lượng cán bộ giáo dục cần thiết, tạo điều kiện đánh giá thường xuyên chất lượng giảng dạy của từng cá nhân, tạo khả năng sàng lọc hàng năm. Do đó kích thích sự vươn lên của từng cá nhân cán bộ giáo dục để khẳng định vị trí của mình trong giảng dạy và nghiên cứu. Đây chính là nguồn động lực tự thân của từng người cũng như của toàn bộ đội ngũ.

Thực hiện chế độ hợp đồng giảng dạy là thực hiện chế độ trả lương theo việc làm. Điều cơ bản về phía nhà trường là xác định đúng khối lượng công việc, có cơ chế đánh giá đúng chất lượng giảng dạy và đào tạo. Về phía người cán bộ giáo dục, điều quan tâm là mức lương trả cho họ có xứng đáng với chức danh, với giá trị chất xám của họ kết tinh trong sản phẩm đào tạo hay không. Nói cách khác nó đòi hỏi xã hội phải đặt đúng vị trí, trả lại giá trị đích thực cho nghề thầy giáo không phải chỉ bằng lời lẽ động viên mà còn bằng giá trị vật chất tương xứng.

Với 3 vấn đề được nêu trong bài viết "Dấu ấn của ngành giáo dục và đào tạo dưới thời cố Bộ trưởng Trần Hồng Quân" và 5 vấn đề ở bài viết này, hi vọng các nhà quản lý giáo dục và giáo dục đại học thuộc thế hệ tiếp nối sau thời Bộ trưởng Trần Hồng Quân hiểu rõ hơn về những nguồn gốc của các chủ trương chính sách về giáo dục đại học, từ đó hiểu và vận dụng một cách đúng đắn, cải tiến một cách khoa học.

Hà An

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/co-che-quan-ly-giang-vien-dao-tao-nckh-duoi-thoi-co-bo-truong-tran-hong-quan-post245061.gd