Có cơ chế đặt hàng để đổi mới công nghệ ngành khai khoáng
Để đổi mới và hiện đại hóa công nghệ trong ngành công nghiệp khai khoáng, cần có cơ chế đặt hàng theo kết quả đầu ra để tạo động lực cho những nhà nghiên cứu, từ đó chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn.
Nhiều doanh nghiệp đã vươn tới trình độ khu vực
Theo đánh giá của Bộ Công Thương, sau hơn 8 năm triển khai Đề án “Đổi mới và hiện đại hóa công nghệ trong ngành công nghiệp khai khoáng đến năm 2025” (Quyết định số 259/QĐ-TTg ngày 22/2/2017 của Thủ tướng Chính phủ), ngành khai khoáng đã chuyển mình rõ rệt. Đáng chú ý, từ lãnh đạo các tập đoàn đến lãnh đạo doanh nghiệp đều nhận thức việc đổi mới và hiện đại hóa công nghệ là nhiệm vụ tự thân, từ đó rất nỗ lực, tích cực đổi mới công nghệ, thiết bị khai thác và chế biến khoáng sản.
Hiện, "đã có các doanh nghiệp vươn tới trình độ của khu vực”. TS. Đào Duy Anh, Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công thông tin tại tọa đàm “Đổi mới và hiện đại hóa công nghệ trong ngành công nghiệp khai khoáng”, do Tạp chí Công Thương tổ chức mới đây.

Dây chuyền công nghệ mới bốc xúc, vận chuyển than thành phẩm của TKV Ảnh: Năng lượng Việt Nam
TS. Đào Duy Anh cho biết, trong chế biến bauxite hay quặng đồng, chúng ta hiện tương đương với các nước phát triển cả về chỉ tiêu kỹ thuật cũng như trình độ tự động hóa. Trong lĩnh vực khai thác, chế biến dầu khí, chúng ta đã nghiên cứu, chế tạo để đưa vào thực tế các giàn khoan nước sâu, đồng thời áp dụng các công nghệ, mô hình để tăng thu hồi dầu trong các mỏ đang khai thác. Với các loại khoáng sản khác như apatit hay titan cũng đã xây dựng được những mỏ thực hiện từ khâu khai thác đến khâu chế biến.
PGS.TS. Phùng Mạnh Đắc, Tổng Thư ký Hội Khoa học và Công nghệ mỏ Việt Nam bổ sung, tại Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), trong 10 năm qua đã triển khai đồng bộ đề án tự động hóa, cơ giới hóa và tin học hóa trong hầu hết tập đoàn và mới đây triển khai tiếp đề án về chuyển đổi số trong doanh nghiệp nhỏ ở các đơn vị trực thuộc. Hiện, tập đoàn có khoảng 14 dây chuyền cơ giới hóa đào lò và gần 30 dây chuyền bán cơ giới hóa. Trong công nghệ khai thác lò chợ có 14 dây chuyền cơ giới hóa đồng bộ khai thác với sản lượng chiếm khoảng 14 - 15% tổng sản lượng khai thác hầm lò. Hầu hết các điều khiển kiểm soát về khí, gió, băng tải, mạng lưới điện, trạm bơm nước cũng được tự động hóa...
“Đến thời điểm này, chúng ta đang có một khởi đầu tương đối vững để chuẩn bị bước tới một giai đoạn mới, đó là xây dựng mỏ thông minh”, ông Đắc nhìn nhận.
Ưu tiên cho dây chuyền chuyển đổi xanh
Mặc dù đã đạt được những kết quả rất tích cực, song ông Phùng Mạnh Đắc thừa nhận, đối với các mỏ hầm lò, tỷ lệ khai thác bằng cơ giới hóa so với các nước còn thấp, chiếm khoảng 13 - 14%. Do vậy, cần đầu tư chuyển đổi toàn bộ sang khấu than bằng cơ giới hóa, thay vì nổ mìn.
Hiện nay, ở các mỏ lộ thiên sử dụng ô tô vận tải có trọng tải đến 100 tấn, thậm chí lên 130 tấn, sử dụng dầu diesel tạo phát thải rất lớn. Do vậy, cần phải tiếp cận với trình độ của thế giới bằng việc sử dụng các nguồn năng lượng pin điện, pin nhiên liệu để chuyển đổi xanh. Hiện, các mỏ, kể cả quặng và khai thác than đã xuống sâu - 300 mét nên cần thay đổi phương thức vận tải từ ô tô sang các loại băng tải dốc như kinh nghiệm của thế giới. “Việc này rất căn cơ, có tính chất xoay chuyển toàn bộ công nghệ khai thác”, ông Đắc nhấn mạnh.
Để phát triển ngành công nghiệp khai khoáng vừa hiệu quả vừa bền vững và thân thiện với môi trường, PGS.TS. Thượng tá Lã Đức Dương, Phó trưởng Phòng Nghiên cứu phát triển, Viện Vật liệu sinh học và môi trường cho rằng, trước tiên, đối với phần thăm dò và lập mỏ, nên ứng dụng các công nghệ cao, xây dựng các mô hình địa chất 3D, sử dụng phần mềm chuyển đổi số để tối ưu hóa hàm lượng cắt, lên kế hoạch khai thác cụ thể và chính xác hơn.
Sau khi đã thăm dò sẽ sử dụng công nghệ khai thác ít xâm lấn. Sử dụng các công nghệ khoan và nổ mìn chính xác ở vỉa mỏ, tự động hóa quy trình khai thác để giảm thiểu tối đa mất mát trong quá trình khai thác mỏ.
Sau khi khai thác, quá trình tuyển và chế biến cũng phải hướng đến công nghệ xanh, có thể sử dụng các công nghệ tuyển khô, dùng các thuốc tập hợp tuyển thân thiện môi trường về sinh học, hay sử dụng các phương pháp tuyển trọng lực, tiết kiệm nước để giảm thiểu quá trình ảnh hưởng môi trường. Trong quá trình tuyển nên đưa công nghệ tuyển và tuần hoàn nước trong quá trình khai thác. Đồng thời, cần kiểm soát được quá trình sử dụng các hóa chất trong quá trình tuyển và phải cô lập được các ô nhiễm về kim loại nặng trong quá trình khai thác, quan trắc được khí bụi tại thời gian thực.
Cũng theo ông Dương, hiện có nhiều khó khăn trong việc triển khai kết quả nghiên cứu khoa học từ đề tài chuyển giao vào thực tiễn. Ông đề nghị cần có cơ chế đặt hàng theo kết quả đầu ra để tạo động lực cho những nhà nghiên cứu; ưu đãi về thuế, tín dụng đối với các dây chuyền, đặc biệt là dây chuyền chế biến khoáng sản và ưu tiên các dây chuyền về chuyển đổi xanh; tạo hành lang pháp lý cho công nghệ vật liệu và các hóa phẩm mới trên thị trường.
Đồng tình rằng Nhà nước cần có các chương trình đặt hàng, TS. Đào Duy Anh bổ sung, một yếu tố hết sức quan trọng là cần tiếp thu trình độ tiên tiến về khoa học công nghệ của các nước trên thế giới thông qua hợp tác quốc tế.
Bên cạnh đó, cơ chế chính sách phải cần phù hợp với từng đối tượng doanh nghiệp. Với các tập đoàn, tổng công ty có tiềm lực kinh tế mạnh, cần hỗ trợ họ những cơ chế, chính sách phù hợp. Còn với những doanh nghiệp nhỏ, cần tập trung hỗ trợ về vốn, tư vấn về chuyển đổi công nghệ cũng như hỗ trợ về đào tạo.
Về phía Bộ Công Thương, trong thời gian tới sẽ đề xuất, tham mưu với Chính phủ những cơ chế chính sách, trong đó có hình thành các trung tâm nghiên cứu, trung tâm thử nghiệm để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ. “Bộ cũng sẽ luôn song hành cùng các doanh nghiệp trong quá trình đổi mới và hiện đại hóa công nghệ trong ngành khai thác, chế biến khoáng sản nói riêng và trong ngành công nghiệp nói chung”, TS. Đào Duy Anh cam kết.












