Có được đặt cọc bằng vàng, bằng ngoại tệ hay bằng séc không?
Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác trong một thời hạn để bảo đảm thực hiện hợp đồng.
1. Đặt cọc là gì?
Theo khoản 1 Điều 328 BLDS quy định về đặt cọc như sau: Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.
Đồng thời, tại Điều 328 BLDS, việc xử lý tài sản khi thực hiện đặt cọc được quy định như sau:
+ Nếu thực hiện hợp đồng: Trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt hoặc trừ vào nghĩa vụ trả tiền cho bên nhận cọc theo thỏa thuận.
+ Nếu không thực hiện đặt cọc: Trong trường hợp bên từ chối là bên đặt cọc thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận cọc; ngược lại nếu bên từ chối là bên nhận đặt cọc thì bên đặt cọc phải trả cho bên nhận tài sản đặt cọc cùng một số tiền tương đương với tài sản.
2. Vàng có được sử dụng để đặt cọc không?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 328 BLDS, đặt cọc là việc bên đặt cọc giao cho bên nhận đặt cọc một tài sản cụ thể (được xem là đối tượng đặt cọc) trong một thời gian cụ thể để đảm bảo cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng giữa các bên. Đối tượng của đặt cọc được là một trong các tài sản sau: Tiền, kim khí quý, đá quý, vật có giá trị khác.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đã định nghĩa kim khí quý bao gồm các loại: Vàng, bạc, bạch kim và các loại kim loại quý khác. Đồng thời, đá quý cũng được liệt kê gồm kim cương hay còn gọi là hạt xoàn, ruby hay còn gọi là hồng ngọc, emơrôt hay còn gọi là lục bảo ngọc, saphia hay còn gọi là bích ngọc, ngọc trai hay chính là trân châu và các loại đá quý khác.
Như vậy, vàng được xem là đối tượng trong giao dịch đặt cọc theo quy định tại Điều 328 BLDS 2015. Và hiện nay vẫn chưa có quy định nào về việc cấm sử dụng vàng để đặt cọc mà chỉ cấm việc sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán (khoản 4 Điều 19 Nghị định số 24/2012/NĐ-CP).
Vì vậy, trong trường hợp hai bên thỏa thuận đặt cọc nhằm đảm bảo giao kết thực hiện hợp đồng mà tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc thì sẽ không vi phạm vì vàng không được dùng để thanh toán, tuy nhiên nếu tài sản đặt cọc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì sẽ bị xem là vi phạm.

Có được đặt cọc bằng vàng, bằng ngoại tệ hay bằng séc? (ảnh minh họa)
3. Ngoại tệ có được sử dụng để đặt cọc không?
Tại Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11, được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 13 Điều 1 Pháp lệnh ngoại hối số 06/2013/PL-UBTVQH13 và Điều 3 Thông tư 32/2013/TT-NHNN quy định rõ tại Việt Nam, mọi giao dịch, thỏa thuận, thanh toán,... của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các trường hợp được sử dụng ngoại hối được pháp luật quy định.
Như vậy, có thể thấy mặc dù tiền là đối tượng của đặt cọc nhưng phải là đồng Việt Nam và các bên không được sử dụng ngoại tệ để đặt cọc đảm bảo cho việc thực hiện giao dịch, hợp đồng. Đặt cọc dù theo bất kỳ hình thức nào cũng không thể sử dụng ngoại tệ.
Tuy nhiên, theo Điều 4 Thông tư 32/2013/TT-NHNN, nhà đầu tư nước ngoài được phép đặt cọc bằng ngoại tệ chuyển khoản khi tham gia đấu giá thuộc một trong các trường hợp sau:
- Mua cổ phần trong doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa
- Mua cổ phần/phần vốn góp của Nhà nước trong doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp có vốn của Nhà nước thực hiện thoái hóa vốn.
- Mua cổ phần/phần vốn góp của doanh nghiệp Nhà nước để đầu tư vào doanh nghiệp khác nhằm thực hiện thoái hóa vốn.
Như vậy, việc đặt cọc bằng ngoại tệ chỉ được áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài khi đặt cọc để thực hiện một trong các giao dịch nêu trên. Còn các trường hợp còn lại, những người tham gia giao dịch không được sử dụng ngoại tệ để đặt cọc.
4. Đặt cọc bằng Séc được không?
Căn cứ Khoản 4 Điều 4 Luật Các công cụ chuyển nhượng 2005, séc được định nghĩa như sau: “Séc là giấy tờ có giá do người ký phát lập, ra lệnh cho người bị ký phát là ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để thanh toán cho người thụ hưởng”.
Do đó, séc cũng là một trong các tài sản đặt cọc theo quy định tại Bộ luật Dân sự nên các bên hoàn toàn có thể sử dụng séc để đặt cọc.