'Cơ hội Harvard' và yêu cầu cải cách thể chế

Việc tập đoàn Amazon chọn Việt Nam là trung tâm logistics toàn cầu thứ hai trên thế giới được ví như 'Việt Nam trúng vào Harvard', bởi điều này có thể thay đổi nền kinh tế sâu rộng, đặc biệt là với doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, từ 'trúng tuyển' đến 'tốt nghiệp' cần những chính sách đồng bộ và mạnh mẽ.

Trong phiên thảo luận tại Diễn đàn Kinh tế – Tài chính Việt Nam 2025, các chuyên gia trong và ngoài nước đã cùng phân tích, mổ xẻ về chủ đề xác lập mô hình tăng trưởng mới cho Việt Nam

Các chuyên gia xác định nền kinh tế đang đứng trước thời điểm đặc biệt, khi mô hình tăng trưởng truyền thống - dựa chủ yếu vào lao động giá rẻ, mở rộng đầu tư và khai thác tài nguyên - không còn đủ để duy trì đà phát triển.

Việc tìm kiếm mô hình tăng trưởng mới không chỉ là đổi cách làm, mà là “tư duy lại toàn bộ cấu trúc của nền kinh tế”, bao gồm không gian phát triển, năng suất, động lực doanh nghiệp và khả năng tham gia vào các tầng giá trị cao hơn của chuỗi cung ứng toàn cầu.

 Ông Nguyễn Như Quỳnh - Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính - điều hành phiên thảo luận trong khuôn khổ Diễn đàn. Ảnh: Đức Thanh

Ông Nguyễn Như Quỳnh - Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính - điều hành phiên thảo luận trong khuôn khổ Diễn đàn. Ảnh: Đức Thanh

"Xác lập mô hình tăng trưởng mới" - thông điệp mạnh mẽ về đổi mới

Ông Sacha Dray, Chuyên gia kinh tế Ngân hàng Thế giới đưa ra ví dụ rõ ràng về yêu cầu phải tái cấu trúc: Việt Nam xuất khẩu tới hơn 400 tỷ USD, mức độ mở cửa thương mại hàng đầu thế giới, nhưng chỉ thu về tỷ lệ giá trị gia tăng thấp, khi 90% việc làm xuất khẩu vẫn ở các khâu giản đơn của chuỗi sản xuất, 3% doanh nghiệp FDI đóng góp 73% xuất khẩu…

Ông Trần Ngọc Anh - Đại học Indiana Bloomington (Hoa Kỳ) nhận định Việt Nam đang có một cơ hội chiến lược rất lớn. Đó là tập đoàn Amazon đã quyết định chọn Việt Nam là trung tâm logistics toàn cầu thứ hai trên thế giới, sau Trung Quốc, và cũng là trung tâm của Đông Nam Á.

Với quyết định này, chuyên gia quốc tế đã so sánh như là "Việt Nam vừa mới trúng vào Harvard", bởi đây là quyết định rất quan trọng có thể thay đổi nền kinh tế sâu rộng, tác động trực tiếp lên các doanh nghiệp Việt Nam mà không cần thông qua hệ thống FDI. Tuy nhiên, để từ “trúng tuyển” đến "tốt nghiệp", cần kịp thời nắm bắt bằng những chính sách đồng bộ và mạnh mẽ.

Theo ông, nếu Việt Nam muốn bước sang mô hình tăng trưởng mới để tăng trưởng cao hơn, chìa khóa nằm ở dịch chuyển lên nấc giá trị cao hơn, thông qua dịch vụ chuyên môn, logistics chất lượng, công nghệ và kỹ năng lao động.

Từ góc độ chính sách vĩ mô, ông Bùi Tất Thắng, - nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển nhắc lại, đổi mới mô hình phát triển không phải là câu chuyện mới mà đã được khởi động từ năm 1986 với chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Tuy nhiên, nhiều năm qua, trên thực tế, chính sách vẫn “nhấn mạnh nhiều hơn vào khía cạnh tăng trưởng”, hơn là chú trọng tương xứng đến mô hình phát triển.

Tại dự thảo Văn kiện Đại hội XIV, một điểm mới rất quan trọng là xác định rất rõ yêu cầu “xác lập mô hình tăng trưởng mới”. Trước đây, chúng ta hay nhắc đến việc cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nhưng lần này đã xác nhận rõ là phải xác lập mô hình tăng trưởng mới. “Đây là thông điệp rất mạnh mẽ từ lãnh đạo Đảng và Nhà nước đối với tiến trình đổi mới của Việt Nam” - ông nhấn mạnh.

Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Thành Trung tham dự Diễn đàn. Ảnh: Đức Thanh

Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Thành Trung tham dự Diễn đàn. Ảnh: Đức Thanh

Về khả năng tăng trưởng hai con số, ông dẫn kinh nghiệm quốc tế cho thấy nhiều nền kinh tế đã từng đạt mức tăng trưởng trên 10% trong giai đoạn phát triển nhanh. Trong khi đó, dù được xếp vào nhóm tăng trưởng nhanh trong 40 năm đổi mới, Việt Nam chưa có năm nào đạt ngưỡng 10%, cao nhất chỉ hơn 9%. Thực tế, khi xây dựng Chiến lược phát triển 2011–2020, nhóm tư vấn của UNDP từng cho rằng mục tiêu 10% là phù hợp và một số địa phương như Hải Phòng đã có giai đoạn dài tăng trưởng 13 - 14% mỗi năm. Từ đó, ông cho rằng việc đặt mục tiêu tăng trưởng hai con số không phải là mới mẻ.

Vấn đề là, Việt Nam cần tiếp tục cải cách mạnh mẽ hơn thể chế, bởi đây là yếu tố có ý nghĩa rất quyết định đối với sự giàu có hay nghèo khó của một quốc gia. Ông lấy ví dụ như các thể chế về thu hút đầu tư không dựa vào ưu đãi thuế, hay các chính sách về phát triển các khu kinh tế thế hệ mới, khu công nghiệp sinh thái, gắn phát triển năng lượng xanh với chuyển đổi số…

Trao cơ chế vượt trội cho các cực tăng trưởng

Trước băn khoăn liệu Việt Nam có thể thực sự vươn lên trong các lĩnh vực công nghệ cao hay không, ông Il-Dong Kwon - Tổng giám đốc Công ty TNHH The Boston Consulting Group, chi nhánh của Tập đoàn BCG tại Việt Nam, chỉ ra sự chuyển dịch cấu trúc ngành qua các thập kỷ, từ nông nghiệp, lúa gạo sang sản xuất, dịch vụ, kinh tế số và năng lượng xanh để minh chứng rằng Việt Nam có tiềm năng “nhảy vọt” nếu biết tận dụng.

Để làm được điều đó, ông khẳng định vai trò khu vực tư nhân là rất quan trọng, dưới sự dẫn dắt và hỗ trợ đúng hướng của Nhà nước. Việt Nam cần hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất sản phẩm chất lượng cao, nuôi dưỡng các “doanh nghiệp dẫn đầu” đủ sức trở thành thương hiệu cạnh tranh toàn cầu, phát triển các công cụ thúc đẩy xuất khẩu, khai thác hiệu quả hợp tác công - tư trong hạ tầng, và đặc biệt là đầu tư vào đào tạo - từ kỹ năng mới như trí tuệ nhân tạo đến các chương trình bồi dưỡng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Các đại biểu tham dự Diễn đàn sáng 5/12.

Các đại biểu tham dự Diễn đàn sáng 5/12.

Nhìn từ góc độ không gian phát triển, ông Nguyễn Trọng Hoài, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, đặt trọng tâm vào các vùng động lực và cực tăng trưởng mới. Trong sáu vùng động lực, ông cho rằng hai vùng có tiềm năng trở thành cực tăng trưởng mới nổi bật là vùng động lực phía Bắc (với Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng) và vùng Đông Nam Bộ. Trong đó Đông Nam Bộ, đặc biệt là TP. Hồ Chí Minh, đang phấn đấu trở thành “siêu đô thị đổi mới sáng tạo” với hơn 14 triệu dân, xây dựng hệ sinh thái thu hút nhân tài khu vực và toàn cầu, hướng tới trung tâm tài chính quốc tế, cảng trung chuyển quốc tế, khu thương mại tự do và kinh tế số.

Từ thực tiễn triển khai Nghị quyết 54 và Nghị quyết 98, ông đánh giá cơ chế đặc thù đã tạo động lực quan trọng cho TP. Hồ Chí Minh, song vẫn còn hạn chế về luật hóa và chưa theo kịp bối cảnh mới khi không gian phát triển được mở rộng.

Do đó, các cực tăng trưởng mới cần được trao “cơ chế vượt trội” với mức phân quyền cao hơn, được vận dụng linh hoạt các quy định, trong đó có nội dung tại khoản 2 điều 4 Nghị quyết 206, để triển khai những dự án mang tính khát vọng. Đồng thời, ông kiến nghị thành lập một Ủy ban Phát triển vùng quốc gia được luật hóa, thay cho cơ chế hội đồng điều phối vùng mang tính “mềm” hiện nay, nhằm thực sự thúc đẩy liên kết vùng, phát huy vai trò của các vùng động lực đối với tăng trưởng chung.

Hoàng Yến

Nguồn Thời báo Tài chính: https://thoibaotaichinhvietnam.vn/co-hoi-harvard-va-yeu-cau-cai-cach-the-che-188208.html