Cố Tổng cục trưởng Nguyễn Văn Biên: Vị thủ trưởng có 'tâm', có 'tầm' của ngành Dầu khí (Kỳ 2)
Tổng cục trưởng Nguyễn Văn Biên rất chú trọng khâu đào tạo và tuyển dụng nguồn nhân lực. Đội ngũ trí thức tập hợp các kỹ sư, phó tiến sĩ, chuyên gia được đào tạo từ Liên Xô, Rumani, CHDC Đức, Pháp và thường xuyên tham khảo kinh nghiệm của các đồng nghiệp ở các nước có nền công nghiệp dầu lửa tiên tiến như Mỹ, Pháp, Na Uy, Algeria, Mexico, Iraq... thông qua nhiều kênh khác nhau.
Để đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật làm việc ngoài biển, Tổng cục Dầu khí đã thành lập Trường Công nhân kỹ thuật dầu khí vào ngày 7-11-1975 tại Bà Rịa. Trong đó, Trung tâm Đào tạo công nhân kỹ thuật dầu khí biển do Chính phủ Na Uy tài trợ được xây dựng từ tháng 7-1978, rồi nâng cấp thành trường dạy nghề chuyên ngành dầu khí, đào tạo thợ lặn, hàn, khoan, cơ điện... Các thiết bị, phương tiện và giáo trình giảng dạy tại Trường Công nhân kỹ thuật dầu khí Bà Rịa áp dụng hệ thống đào tạo dầu khí phương Tây.
Tin dùng cán bộ trẻ
Trong hoàn cảnh những năm 1971-1975, đất nước đang có chiến tranh, chưa có công nghiệp dầu khí, chưa có đủ cán bộ có trình độ và kinh nghiệm trong lĩnh vực dầu khí, cũng chưa thể thuê chuyên gia nước ngoài, ông Nguyễn Văn Biên trực tiếp chỉ đạo và điều hành Ban Dầu khí đã rất mạnh dạn tin dùng các cán bộ trẻ vừa mới tốt nghiệp từ các trường đại học dầu khí ở Đông Âu.
Đầu năm 1972, tôi được ông Biên giao nhiệm vụ chủ trì tính toán các phương án công nghệ của nhà máy lọc dầu có công suất 1,5-3 triệu tấn/năm do Trung Quốc hứa viện trợ cho Việt Nam. Lúc đó tôi mới tốt nghiệp kỹ sư công nghệ chế biến dầu khí ở Rumani về nước tháng 7-1971, chỉ có thể tính bằng tay và dùng thước logarit; sơ đồ công nghệ vẽ bút chì trên giấy croky. Hàng chục phương án khác nhau, có so sánh chuyên sâu đã được hình thành như vậy. Trong quá trình tính toán, ông Biên luôn động viên, khích lệ các sáng kiến, phương pháp thuyết minh, trình bày để truyền tải ý tưởng và có sức thuyết phục. Ông còn rèn tôi kỹ năng viết báo cáo, tờ trình bằng cách yêu cầu tôi viết đi, viết lại tới 12 lần, đến khi đạt được yêu cầu về nội dung, hình thức, cách truyền tải thông tin khác nhau. Từ một thanh niên nhà quê nhút nhát, có tính cẩu thả, đại khái, tôi dần trở nên cẩn thận hơn, đặc biệt học được phương pháp tư duy của ông để thực hành nhiệm vụ.
Trong cuộc đàm phán về nhà máy lọc dầu tại Bắc Kinh từ tháng 12-1973 đến tháng 2-1974, ý tưởng hai bên khác nhau khá xa, có nguy cơ không đạt kết quả. Ông Biên đã ủng hộ đề xuất của tôi và ông Đông Hải, chủ động nêu phương án hợp lý. Tôi tính toán, vẽ sơ đồ, ông Đông Hải trình bày phương án bằng tiếng Hoa trên giấy của khách sạn Bắc Kinh, mất mấy đêm làm việc tới 2-3 giờ sáng mới xong (ông Biên và ông Hải thông thạo Trung văn), được ông Biên xem xét, đồng ý đưa ra thảo luận và cuối cùng hai bên ký được biên bản vào ngày 18-2-1974. Lúc đó, tôi là 1 trong 2 cán bộ trẻ nhất trong đoàn đàm phán Việt Nam gồm hơn ba chục chuyên gia đại diện cho Tổng cục Hóa chất, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Ngoại thương, Thương vụ Việt Nam tại Trung Quốc. Có sự tin dùng cán bộ trẻ của ông Biên, tôi mới đủ tự tin để đề xuất giải pháp.
Chuyến công tác cuối tháng 8-1975 ở Mexico, tôi được đi cùng đoàn ông Biên. Công ty Dầu lửa quốc gia Mexico (PEMEX) mời đoàn đi thăm giàn khoan biển ngoài vịnh Mexico. Tôi chưa bao giờ được lên giàn khoan biển, thực lòng cũng muốn đi xem. Nhưng nghĩ đến nhiệm vụ tìm hiểu khâu hạ nguồn của PEMEX, tôi đề xuất đi thăm nhà máy lọc dầu và đề nghị PEMEX cử cán bộ biết tiếng Anh đi cùng, vì tôi không nói được tiếng Tây Ban Nha. Ông Biên và ông Nguyễn Cơ Thạch chấp thuận. Ông Biên dặn tôi tìm hiểu về công nghệ, thiết bị, chuyên gia của PEMEX.
Hôm sau, trong khi đoàn Việt Nam đi thăm giàn khoan thì Trưởng phòng Kế hoạch của PEMEX lái xe đưa tôi đi thăm nhà máy lọc dầu. Đại diện Ban Giám đốc nhà máy đón tiếp rất trịnh trọng đoàn Việt Nam sang thăm nhà máy, mà đoàn chỉ có một kỹ sư trẻ. Phía bạn rất chu đáo dẫn đi xem các xưởng sản xuất, cởi mở trao đổi các kinh nghiệm về xây dựng và vận hành, các vấn đề về công nghệ và thiết bị mà phần lớn được nhập khẩu từ Mỹ và các nước Tây Âu. Thời điểm đó, Mexico mới chế tạo được khoảng 50% thiết bị tĩnh.
Kết quả là sau chuyến thăm Mexico của đoàn Việt Nam, PEMEX cử chuyên gia sang Việt Nam trao đổi kinh nghiệm phát triển ngành dầu khí và mời 2 đoàn cán bộ dầu khí Việt Nam sang PEMEX thực tập trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, đào tạo và dịch vụ kỹ thuật.
Khi sang Paris (Pháp) đầu tháng 9-1975, Công ty Elf Aquitaine mời ông Biên và Đại sứ Võ Văn Sung đi thăm cơ sở khai thác, chế biến khí thiên nhiên ở miền Nam nước Pháp, còn tôi ở lại gặp gỡ, làm quen và học hỏi một số chuyên gia Việt kiều đang làm việc cho các công ty thiết kế, viện nghiên cứu công nghệ dầu khí ở Paris, do Đại sứ quán giới thiệu.
Quá trình được đào tạo ở Tổng cục Dầu khí giai đoạn 1976-1980 làm cho đội ngũ cán bộ kỹ thuật, quản lý của ngành Dầu khí Việt Nam nâng cao năng lực, cập nhật trình độ công nghệ, kỹ thuật dầu khí ở tầm quốc tế. Năng lực của đội ngũ ấy chính là di sản mà ông Nguyễn Văn Biên đã dày công gây dựng.
Việc đàm phán các hợp đồng của Tổng cục Dầu khí Việt Nam với nước ngoài trong những năm 1976-1978 rất gay go. Thống nhất được quan điểm trong nội bộ Việt Nam đã khó, vì lĩnh vực này hoàn toàn mới mẻ, thuyết phục được đối tác nước ngoài chấp nhận giải pháp của nước chủ nhà cũng không dễ. Ông Biên rất kiên trì động viên và tin tưởng các cán bộ trẻ của Vụ Kinh tế kỹ thuật và Hợp tác quốc tế của Tổng cục Dầu khí, như các kỹ sư Đỗ Văn Hà, Vũ Trọng Đức, Đỗ Văn Luyện, những người đã từng được bổ túc về lĩnh vực này, nghiên cứu sâu, tính toán cụ thể, để thuyết phục các bên đi đến ký kết được 8 hợp đồng dầu khí đầu tiên vào năm 1978.
Đối với cán bộ trẻ, ông Biên luôn khích lệ sự tự tin, dám nghĩ, dám làm với những sáng kiến, tìm tòi giải pháp, nhưng cũng khá khắt khe và yêu cầu cao.
Những kết quả công việc cụ thể và sự trưởng thành của dàn cán bộ trẻ trong ngành Dầu khí là minh chứng quan điểm “dụng nhân” của vị thủ trưởng đầu tiên của chúng tôi. Trong thời kỳ mà việc sử dụng cán bộ còn nặng về “quá trình”, “sống lâu lên lão làng”, không phải ai cũng có thể làm được như vậy.
Tấm gương ham học hỏi
Ấn tượng đầu tiên của tôi khi gặp ông Nguyễn Văn Biên là ông hỏi rất nhiều về kiến thức
Nhờ có trình độ ngoại ngữ và cập nhật thông tin tích lũy từ thời sơ khai của Ban Dầu khí giai đoạn 1971-1975, ngay những năm đầu của ngành Dầu khí Việt Nam, một số cán bộ của Tổng cục Dầu khí đã rất vững vàng khi giao tiếp, làm việc với các đối tác nước ngoài, thảo luận những chuyên đề mới mẻ, các hợp đồng dầu khí, các dự án lọc hóa dầu, dịch vụ kỹ thuật...
chuyên môn. Cách nói chuyện của ông không phải là để kiểm tra trình độ của cán bộ trẻ, mà thể hiện sự cầu thị, muốn học hỏi, hiểu biết thêm về một lĩnh vực mới mẻ đối với ông. Một số câu hỏi của ông làm tôi lúng túng, vì lý thuyết được trang bị ở trường đại học là chưa đủ. Tôi được biết, ông cũng mời nhiều kỹ sư, phó tiến sĩ, chuyên gia Việt kiều ở nhiều lĩnh vực như thiết bị dầu khí, chất dẻo, sợi tổng hợp, khai thác dầu, kinh tế dầu khí... tới nhà riêng để nói chuyện, học hỏi thêm chuyên môn ngoài giờ làm việc.
Từ một cán bộ Mặt trận Việt Minh và làm công tác Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, khi hòa bình lập lại ở Đông Dương, ông đã vừa làm, vừa học thêm, nắm được kiến thức về công nghiệp hóa chất, sản xuất phân bón, dầu khí, trở thành Viện phó Viện Công nghiệp hóa chất, Phó giám đốc Nhà máy Phân đạm Hà Bắc, Ủy viên Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước, Tổng cục phó Tổng cục Hóa chất, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, rồi Tổng cục trưởng Tổng cục Dầu khí. Đó là một hành trình liên tục học hỏi, bổ túc thêm những kiến thức mới.
Khi bắt đầu công tác chuẩn bị xây dựng ngành Dầu khí, ông Biên cũng học thêm tiếng Anh, ngoài tiếng Pháp và tiếng Hoa mà ông đã biết từ trước. Ông động viên anh chị em cán bộ Ban Dầu khí học tiếng Anh buổi tối, bản thân ông cũng đi học như mọi người. Trong thập niên 80 của thế kỷ trước, ông còn học thêm tiếng Nga. Theo ông, làm nghề dầu khí, muốn có trình độ ngang tầm quốc tế, phải biết ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh.
Thấy mọi người đi học tản mạn, có người phải vất vả đi rất xa mới có lớp, ông Biên cho tổ chức lớp học ngoài giờ, mời giáo viên đến dạy ngay tại cơ quan, một lớp sơ cấp, một lớp nâng cao. Sau mỗi khóa học, mọi người đăng ký thi ở Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, lấy chứng chỉ trình độ A, B, C.
Cũng nhờ có trình độ ngoại ngữ và cập nhật thông tin tích lũy từ thời sơ khai của Ban Dầu khí giai đoạn 1971-1975, ngay những năm đầu của ngành Dầu khí Việt Nam, một số cán bộ của Vụ Kinh tế kỹ thuật và Hợp tác quốc tế và Cục Xây dựng cơ bản của Tổng cục Dầu khí đã rất vững vàng khi giao tiếp, làm việc với các đối tác nước ngoài, thảo luận những chuyên đề mới mẻ, các hợp đồng dầu khí, các dự án lọc hóa dầu, dịch vụ kỹ thuật...
Quá trình được đào tạo nâng cao sau này ở Tổng cục Dầu khí giai đoạn 1976-1980 làm cho đội ngũ cán bộ kỹ thuật, quản lý của ngành Dầu khí Việt Nam nâng cao và phát huy được năng lực, cập nhật được trình độ công nghệ, kỹ thuật dầu khí ở tầm quốc tế, nhất là từ các công ty dầu lửa đa quốc gia và các tập đoàn công nghệ tiên tiến ở các nước tư bản phương Tây. Năng lực của đội ngũ dầu khí ấy chính là di sản, là dấu ấn mà ông Nguyễn Văn Biên - thủ trưởng đầu tiên của chúng tôi - đã truyền cảm hứng và dày công gây dựng.
Những năm cuối thập niên 80, thỉnh thoảng tôi ra Hà Nội công tác, hay đến thăm ông Biên ở khu tập thể Giảng Võ. Cả khi ông còn là Phó chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước kiêm Viện trưởng Viện Quy hoạch phân vùng và khi đã nghỉ hưu, mỗi lần gặp tôi, ông lại say sưa nói về các chủ đề chiến lược phát triển, hay các cuốn sách đề cập tới những vấn đề lý thú, như sự giao thoa của hai hệ thống, sự trỗi dậy và sụp đổ của các đế chế trên thế giới... Ông luôn truyền cảm hứng, cho tôi niềm đam mê học hỏi không ngừng nghỉ.
Kỷ niệm 60 năm Ngày Truyền thống của ngành Dầu khí Việt Nam, tôi thấy vinh dự được đứng trong đội ngũ đồng nghiệp đã cùng nhau đóng góp sức lực và trí tuệ cho sự nghiệp dầu khí đáng tự hào. Tôi luôn biết ơn cố Tổng cục trưởng Nguyễn Văn Biên, một người thầy đã truyền nhiệt huyết và niềm đam mê nghề nghiệp cho những thế hệ người làm dầu khí đầu tiên.
Những kết quả công việc cụ thể và sự trưởng thành của dàn cán bộ trẻ trong ngành Dầu khí là minh chứng quan điểm “dụng nhân” của vị thủ trưởng đầu tiên của chúng tôi. Trong thời kỳ mà việc sử dụng cán bộ còn nặng về “quá trình”, “sống lâu lên lão làng”, không phải ai cũng có thể làm được như vậy.
Bỳ Văn Tứ - Nguyên Trưởng ban QLDA Nhà máy Đạm Phú Mỹ