Những cổ vật được phát hiện tại các di tích tiền – sơ sử duyên hải Việt Nam cho thấy các nhóm cư dân Việt cổ đã có quan hệ mật thiết với nhau và có cuộc sống gắn bó với biển. Ảnh: Dấu in hoa văn bằng gốm thuộc văn hóa Hoa Lộc, cách ngày nay khoảng 4.000–3.000 năm, hiện vật tại một trưng bày chuyên đề ở Hà Nội.
Không chỉ vậy, các cư dân trên mảnh đất hình chữ S thời cổ sơ còn tiến hành giao lưu, trao đổi xa hơn với các nhóm cư dân đồng đại khác ở khu vực, gồm cả các hải đảo, thông qua đường biển. Ảnh: Đèn gốm, cách ngày nay 2.500 – 1.800 năm, tìm thấy tại di chỉ Hòa Diêm (Cam Ranh – Khánh Hòa).
Giai đoạn từ thế kỷ 3 TCN tới thế kỷ 10 SCN, Việt Nam đã tham gia mạnh mẽ vào hệ thống hàng hải quốc tế với sự xuất hiện của các thương cảng trên cả ba miền. Ảnh: Hạt, chuỗi khuyên tai hai đầu thú cách ngày nay 2.500-2.000 năm, thuộc di chỉ Giồng Cá Vồ (Cần Thơ, TP. HCM).
Trong một vài thế kỷ trước, sau công nguyên, lưu vực sông Hồng ở miền Bắc nước ta còn đóng vai trò là nơi đón tiếp các sứ bộ ngoại giao, phái đoàn thương mại nước ngoài và là trạm cuối của hải trình giao thương từ Tây sang Đông. Ảnh: Tiền làm bằng kim loại, thế kỷ 5 – 6, văn hóa Óc Eo.
Từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 15, với những chính sách phát triển ngoại thương phù hợp của các vương triều phong kiến hùng mạnh, Việt Nam tiếp tục là địa chỉ hấp dẫn đối với thuyền buôn nước ngoài thông qua cảng Vân Đồn (Quảng Ninh) và Thị Nại (Bình Định). Ảnh: Đầu rồng đất nung thời Trần, tìm thấy ở thương cảng Vân Đồn, Quảng Ninh.
Đặc biệt, việc sản xuất và xuất khẩu gốm sứ thương mại đáp ứng nhu cầu khắp các thị trường Nhật Bản, Đông Nam Á và Tây Á đã đánh dấu sự hiện diện vững chắc vào hải thương quốc tế của quốc gia Đại Việt. Ảnh: Gạch chạm nổi hình rồng thời Lý, tìm thấy ở bến Vạn Ninh, Móng Cái, Quảng Ninh.
Từ thế kỷ 16-18, chính quyền Đàng Ngoài và Đàng Trong đều mở cửa rộng rãi với giao thương hàng hải quốc tế. Đặc biệt, Đàng Trong đã thành lập Hải đội Hoàng Sa và Hải đội Bắc Hải, qua đó xác lập quyền làm chủ biển đảo của người Việt. Ảnh: Đĩa gốm Arita Nhật Bản, niên đại thế kỷ 17-18, được tìm thấy ở vùng biển Việt Nam.
Thời Nguyễn, hải khẩu thông thương với nước ngoài được thiết lập dọc theo bờ biển Việt Nam từ Bắc chí Nam. Ngoài ra, các triều vua Nguyễn cũng thường xuyên chăm lo khai thác kinh tế biển và tiến hành các hoạt động thực thi chủ quyền của quốc gia, dân tộc trên biển Đông. Ảnh: Lọ nước hoa của cung đình triều Nguyễn được nhập qua đường biển.
Cuối triều vua Minh Mệnh, bản đồ nước Việt Nam với tên gọi Đại Nam nhất thống toàn đồ đã được lập và công bố, trên bản đồ có ghi hai tên Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam. Ảnh: Mô hình thuyền và bản đồ An Nam đại quốc họa đồ, Jean Louis Taber, 1834.
Thế kỷ 20, nước Việt Nam thống nhất kế thừa chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời vun đắp sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đã thực thi nhiều biện pháp tích cực nhằm thực hiện chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông. Ảnh: Đèn biển của Ty bảo đảm hàng hải Hải Phòng, thế kỷ 20.
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra các mục tiêu và định hướng chiến lược nhằm nhanh chóng đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Ảnh: Những khẩu súng thần công thế kỷ 18 khai quật ở vùng biển Vũng Tàu phía dưới tấm bản đồ nước CHXHCN Việt Nam.
Mời quý độc giả xem video: Giải mã thông điệp ý nghĩa trống đồng Đông Sơn. Nguồn: Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội.
Quốc Lê