Con lừa bước vào ngụ ngôn!

Phương Tây có thành ngữ 'Đồ con lừa'; 'Làm việc nặng nhọc như con lừa'. Người Việt có thành ngữ 'Thân lừa ưa nặng' chỉ những kẻ 'ngu như lừa' để ẩn dụ về tính nết bướng bỉnh 'cứng đầu' của người 'ngu'. Phật thoại có câu chuyện, một ngôi chùa trên núi có nuôi một chú lừa. Một hôm nó chở tượng Phật nên mọi người đều cung kính vái lạy. Hai ba lần như thế, lừa ta rất hãnh diện vì được mọi người vì nể.

“Đàn gảy tai… lừa”

Thần thoại Hy Lạp có truyền thuyết về vua Miđax tai lừa. Kể rằng thần Păng xấu xí có cái đầu hai sừng dê nhưng tự hào với tài thổi sáo có thể làm chim ngừng bay, nước ngưng chảy, nên muốn so tài với thần âm nhạc Apôlông. Cả hai là thần trên trời nên nhất trí mời vua Miđax dưới hạ giới làm trọng tài cho “khách quan”.

Thần Apôlông cầm cây đàn xita và một bữa tiệc âm thanh cất lên. Cả vũ trụ nín thở rồi cùng du dương theo nhịp điệu thần thánh. Cả trái đất như khải hoàn reo ca. Rồi tất cả lại như ngưng đọng, đắm say, thổn thức... Đại để, đó là tiếng đàn điều khiển được nhịp trôi chảy của tạo hóa. Khi thần Păng cất tiếng sáo thì muôn loài ngất ngây, bàng hoàng, sửng sốt... Ở trên trời, Dớt vén mây ngỏng tai nghe tiếng sáo đồng quê ngọt hơn rượu nho của thần Điônizơt.

Tranh biếm họa của Thomas Nast, 1879.

Tranh biếm họa của Thomas Nast, 1879.

Không biết thần Păng có “hối lộ” gì cho vua Miđax không, nhưng vì người trần mắt thịt, nghe tiếng sáo dân dã gần gũi mà vua Miđax xử cho thần Păng thắng cuộc?! Tức tối, thần Apôlông lao đến cầm lấy hai tai vua kéo dài ra và nói: “Ngươi là một con lừa!”. Tức thần mỉa mai nhà vua “ngu như con lừa” thì không biết thưởng thức nghệ thuật nên xứng đáng đeo đôi tai lừa.

Thành ngữ Việt chẳng kém phần trào phúng thần Apôlông, nên có câu mỉa “Đàn gảy tai trâu”. Cả hai đều có ý chung, chê cả lừa và trâu đều rất “ngu”, chẳng hiểu gì về nghệ thuật. Nhưng theo nhiều nghiên cứu, đôi tai lớn để giúp lừa giữ mát, dễ dàng tản nhiệt trong môi trường sa mạc nóng bức, đồng thời giúp tăng cường thính giác, có thể nghe được từ rất xa tiếng gọi của đồng loại và âm thanh chết chóc của kẻ săn mồi.

“Đồ con lừa”

Phương Tây có thành ngữ “Đồ con lừa”; “Làm việc nặng nhọc như con lừa”. Người Việt có thành ngữ “Thân lừa ưa nặng” chỉ những kẻ “ngu như lừa” để ẩn dụ về tính nết bướng bỉnh “cứng đầu” của người “ngu”. Phật thoại có câu chuyện, một ngôi chùa trên núi có nuôi một chú lừa. Một hôm nó chở tượng Phật nên mọi người đều cung kính vái lạy. Hai ba lần như thế, lừa ta rất hãnh diện vì được mọi người vì nể.

Bỏ ngôi chùa, xuống núi, nó gặp đám cưới. Quen được cung kính, nó nghênh ngang đi vào, liền bị mọi người phang gậy tới tấp. Câu chuyện toát ra lời dạy: Giá trị nằm ở nội dung bản chất chứ không ở hình thức. Khi người ta sùng bái những thứ bạn có trên người như trang sức, của cải (tức hình thức), lại tưởng nhầm họ sùng bái con người bạn (nội dung), sẽ dẫn đến hậu quả. Như câu chuyện kia, mọi người trọng vọng tượng Phật nhưng con lừa tưởng mọi người trọng vọng nó. Đáng chú ý ngụ ngôn Êdop (phương Tây) cũng có câu chuyện “Chú lừa chở Thánh tích” có nội dung và bài học tương tự.

Ngụ ngôn “Con Lừa đội lốt Sư Tử” của Êdop nổi tiếng đến mức hầu như có trong mọi sách tiểu học ở hầu hết các quốc gia. Tự cho mình thông minh, một hôm, Lừa khoác bộ da Sư Tử lên mình đi vào rừng sâu. Loài vật, kể cả con hổ hung dữ trông thấy cũng vội vàng chạy trốn, lảng tránh. Lừa rất thích chí. Một con Cáo muốn kết bạn với Sư Tử liền mon men đến gần cầu thân.

Biết Cáo là kẻ xảo quyệt, Lừa liền dọa Cáo bằng cách gầm lên một tiếng thật to. Cáo phá lên cười, nói: “Hóa ra là anh Lừa. Không nghe tiếng kêu của anh thì tôi cũng sợ. Nhưng giờ thì chẳng ai còn sợ anh nữa đâu”. Bật toát ra ý: phải biết mình là ai. Dù có khoác bộ da sư tử thì lừa vẫn là lừa. Dù có khoác lên người bao danh hiệu này nọ, đến một lúc nào đó thực chất cũng bị “lòi” ra, làm trò cười cho thiên hạ.

Tranh “Chú Lừa chở Thánh tích” của Edmond Malassis (1856–1941).

Tranh “Chú Lừa chở Thánh tích” của Edmond Malassis (1856–1941).

Ngụ ngôn phương Tây có “Con lừa và cái áo” mượn con lừa để mỉa mai kẻ giàu có, nhưng “ngu như lừa”. Kể lão nhà giàu nọ đi chợ mua một con lừa, liền chất lên lưng nó bao nhiêu hàng hóa. Trên đường về, thấy sẵn củi, lão chặt luôn mấy vác chất lên. Nặng quá, lừa cũng cố đi. Thấy mấy tảng đá vuông vắn, lão bắt lừa thồ nốt…

Trời nắng, lão cởi chiếc áo vắt lên lưng con vật. Đã kiệt sức, khi thêm chiếc áo, lừa ngã quỵ xuống. Ngạc nhiên, lão cáu kỉnh quát: “Đồ ăn hại! Có cái áo mà cũng không chở nổi”. Thì ra lòng tham đã che mất “nhận thức” của lão, không nhìn thấy cái “tổng thể” những thứ con lừa phải mang, chỉ nhìn thấy cái “bộ phận” nhỏ là chiếc áo. Lão này thua xa trí tuệ của một thành ngữ Việt: “Giọt nước tràn ly”.

Con lừa khôn ngoan, khiêm tốn, đức hạnh

Ngụ ngôn phương Tây kể về con lừa già bị rơi xuống giếng cạn. Thấy vậy, người nuôi là một chủ trang trại bèn quyết định “một công đôi việc”, cái giếng cần phải lấp, con lừa già chẳng cần mất công đưa lên. Ông ta cho lấp giếng. Ban đầu, con lừa khóc lóc kêu la thảm thiết. Hiểu chuyện, nó bình tĩnh trở lại. Mỗi khi bị một xẻng đất đổ lên lưng, lừa lắc mình cho đất rơi xuống rồi bước chân lên trên. Cứ vậy, đất đổ xuống đến đâu, lừa lại bước lên cao hơn bấy nhiêu. Khi giếng gần đầy, con lừa lấy sức nhảy thoát ra ngoài.

Câu chuyện mỉa mai, lên án gay gắt con người nhẫn tâm, độc ác, vô ơn với loài vật, hơn nữa là con vật từng giúp làm bao việc. Ý nghĩa chính cũng dễ hiểu: trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhất là trong bước đường cùng, phải thật bình tĩnh để biến “nguy” thành “cơ”. Giả sử con người không đổ đất, lừa sẽ chết đói. Nhưng khôn ngoan, bình tình, nhận ra bản chất sự việc, lừa ta tận dụng ngay việc làm độc ác của người để biến thành cơ hội tốt cho mình thoát hiểm.

Cả Kinh Cựu ước và Tân ước đều nhắc đến hình tượng con lừa, kể Chúa Giê-su tới thành Giê-ru-sa-lem trên lưng con lừa. Vì sao vậy? Vì “Ngài đến không phải để thống trị bằng sức mạnh, mà bằng tình yêu và sự cứu chuộc”. Ngài không đến bằng ngựa, bởi ngựa tượng trưng cho chiến tranh, quyền lực.

Con lừa là loài vật gắn liền với lao động, thể hiện sự khiêm nhường và tinh thần tận tâm phục vụ. Thế nên “Chúa Giê-xu đến để phục vụ nhân loại, không phải để được phục vụ”. Đó là một ngụ ngôn “Chúa dạy chúng ta rằng sự vĩ đại thật sự nằm ở sự khiêm nhường và phục vụ, không phải ở quyền lực và sự hào nhoáng bề ngoài”. Đây là một hình ảnh tỏa sáng của chân lý, đạo lý.

Bước vào biếm họa ngụ ngôn

Cả thế giới biết biểu tượng cho đảng Dân chủ (Mỹ)là con lừa. Ít nhất có 3 giả thuyết về chuyện này. Một, năm 1828, Jackson - một đảng viên Dân chủ tham gia tranh cử. Các đối thủ đảng Cộng hòa gọi Jackson bằng biệt danh “jackass” (kẻ khờ, con lừa). Jackson liền nhận ngay để “khuếch trương” thanh thế cho đảng mình.

Hai, năm 1870, họa sĩ Thomas Nast vẽ hình ảnh con lừa tượng trưng cho đảng Dân chủ trong bức biếm họa có tên “Lừa sống đá sư tử chết”. Sau đó, ông thường miêu tả hai con vật tương phản nhau: con voi (biểu trưng cho đảng Cộng hòa) và con lừa. Cả hai lại luôn trong hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”. Năm 1879, Nast vẽ tiếp bức tranh con lừa sắp rơi xuống cái vực “khủng hoảng tài chính”.

Ba, trước đó mấy trăm năm diễn ra cuộc di cư từ Anh sang đất Hoa Kỳ (nay) đã mang theo biểu tượng quen thuộc là con lừa, từ đó trong văn hóa Mỹ, con lừa như là một biểu tượng truyền thống…

Bước vào tiểu thuyết

Trong “Đôn Kihôtê” của Xécvantéc (1547 - 1616), hình tượng con lừa trở thành phương tiện của tiếng cười trào tiếu. Bên cạnh Đôn Kihôtê cao gầy, hốc hác, đăm chiêu cưỡi con ngựa già gầy trơ xương là Păngxa khỏe mạnh, thấp béo, tươi tắn, cưỡi con lừa thấp tịt, béo tròn. Nhìn từ cấu trúc mô hình, họ là đối cực của nhau. Nếu không có trò, một mình thầy chắc khó đi đến, hoặc có đi đến cái “đích” lý tưởng “cứu nhân độ thế” đã đặt ra từ đầu, câu chuyện cũng nhạt.

Có thể thêm một cách hiểu về cuộc hành trình của họ chính là cuộc hành trình của một con người vươn đến mục đích đã định, luôn phải đấu tranh, phải kiên trì, phải quyết liệt giữa hai bờ vực chênh vênh: mơ mộng, viển vông và ảo tưởng, hão huyền; tỉnh táo, cụ thể và chắc chắn, thực dụng…

“Kỳ lạ” trong ca dao

Trong ca dao của ta, câu “Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa” rất quen thuộc. Kỳ Lừa là biến âm của “khau lư” tiếng Tày, Nùng. “Lư” từ Hán Tày nghĩa là con lừa. Truyền thuyết kể Đốc trấn Lạng Sơn nuôi một đôi lừa rất khôn. Sáng ra chúng sang núi Kỳ Cấp ăn cỏ, chiều đến bơi vượt sông Kỳ Cùng về nhà. Từ ngày con người phá rừng mở chợ, đôi lừa đi rồi không trở về, tìm không thấy. Cứ như là chúng “phản ứng” với việc ấy.

Dân gian gọi là đôi lừa kỳ lạ, nhắc nhở nhau phải có “đạo đức sinh thái” (một khái niệm của “phê bình sinh thái” hiện đại) tức biết trân trọng, quý mến, yêu thương rừng - ngôi nhà của loài người đang sống. Tên chợ cũng được đặt luôn là Kỳ Lừa!

Nguyễn Thanh Tú

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/tu-lieu-van-hoa/con-lua-buoc-vao-ngu-ngon--i790886/