Cổng làng
Tôi sinh ra ở thành phố, nhưng tuổi thơ thì lại gắn bó với quê, với làng. Những năm tám mươi của thế kỷ trước, khi mà cả đất nước còn khó khăn, gian khổ, thiếu thốn, bố đành gửi tôi về làng ở với ông bà. Mãi cho đến sau này kí ức của tôi về quê, về những người nông dân hiền lành, chất phác có lẽ sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí.
Làng tôi nằm ven bờ Sông Đáy, chỉ đi qua chiếc cầu phao chợ Đanh Xuyên là tới cổng làng. Làng tôi có cái tên hết sức đặc biệt, mà nhiều người mới đến hay tò mò hỏi tại sao lại đặt tên là làng "Trinh Tiết".
Theo như bà tôi và các cụ kể lại thì làng tôi trước kia có tên là làng Sêu. Gọi là làng Sêu cho dễ nhớ vì làng có chợ Sêu họp theo phiên nổi tiếng khắp vùng.
Lịch sử thì ghi chép lại thành hoàng làng là Nguyễn Đức Bảo. Mẹ Bảo là người phụ nữ đẹp nhất vùng, khi chồng mất có rất rất nhiều trai làng đến ngỏ lời cầu hôn nhưng bà vẫn một lòng thủ tiết thờ chồng, nuôi con và nhất quyết không tái giá.
Sau này Nguyễn Đức Bảo trở thành một danh tướng chống giặc ngoại xâm rất giỏi dưới thời Triệu Quang Phục (Triệu Việt Vương).
Năm 1054 vua Lý Thánh Tông du ngoạn trên Sông Đáy và dừng chân bên nương dâu của làng Sêu. Người dân trong làng đem dâng vua những tấm lụa là đẹp nhất của làng. Vua Lý Thánh Tông cảm động, hỏi chuyện và biết tướng tài của làng là Bảo Công, có người mẹ thủ tiết thờ chồng nuôi con, làm gương cho những phụ nữ khác của làng, một mực thủy chung son sắt với chồng con. Từ đó vua đổi tên làng Sêu thành làng Trinh Tiết.
Chẳng biết người dân quê tôi dựng cổng làng tự bao giờ. Trong tiềm thức một đứa trẻ, tôi chỉ nhớ cổng làng rêu phong trầm mặc. Có một lối đi chính và hai lối ngách. Sát lối nghách phía Đông có một cây đa cổ thụ rất to.
Người dân làng tôi mỗi lần đi làm đồng về thường ngồi nghỉ bên gốc đa, họ kể cho nhau nghe về những chuyện mùa vụ, rót cho nhau bát nước vối, chia nhau vài củ lạc mà sao thân thương đến vậy.
Cổng làng cũng là nơi tôi chờ bà đi chợ Dầu, chợ Đục mãi tận giáp Chùa Hương. Bà quảy hàng đi chợ từ tinh mơ sáng cho tới tận non chiều. Lần nào nhìn thấy bà từ xa với chiếc áo sồi thâm và đôi quang gánh tôi cũng mừng rỡ, quýnh quáng.
Quà của bà đôi khi chỉ là chiếc kẹo vừng, kẹo bột, hôm nào bà bán được nhiều hàng hơn thì thể nào tôi cũng được một bát cháo kê vàng óng như lụa, vị bùi bùi của những hạt kê thơm vướng vít mãi cho đến tận bây giờ.
Cổng làng cũng là nơi các bà, các mẹ tiễn chồng ra trận, là những đêm trăng thanh, gió mát của những đôi trai gái hò hẹn, yêu nhau. Cổng làng cũng là nhân chứng lịch sử, trải qua bao thăng trầm, biến cố của đời sống. Người làng tôi quan niệm "nhà có nóc, làng có cổng" phụ nữ làng Trinh Tiết bao đời nay vẫn giữ được nét truyền thống thủy chung, son sắt như cái tên làng mà vua Lý Thánh Tông đặt cho.
Vài năm trở lại đây, khi làng tôi sáp nhập về Thủ Đô người ta đã phá bỏ cái cổng làng cũ, cây đa cổ thụ cũng đã bị chặt đi, thay vào đó là một cái cổng mới bằng bê tông, cốt thép.
Lần trở về nào tôi đứng trước cổng làng mà bâng khuâng, hoài nhớ. Thanh niên, nam nữ bây giờ không còn ra cổng làng hóng mát. Họ tìm vào những quán cà phê, máy lạnh, những quán karaooke để giải trí. Đôi khi họ quên mất cả cái cổng làng ngày xưa mà hàng ngày họ vẫn đi qua. Làng đã khoác lên mình tấm áo mới mang tên "làng văn hóa...".
Chợ Sêu vẫn còn đấy mà sao trống trải, tan hoang. Người làng không còn đi chợ bán lụa tơ tằm, những bãi dâu xanh ngút ngàn đã nhường chỗ cho khu công nghiệp và những nhà hàng, siêu thị mọc lên như nấm sau mưa. Bà tôi cũng đã về với tiên phật, thánh thần.
Đứng trước cổng chợ, cổng làng tôi lại nhớ câu bà luôn tâm niệm "đông con, đông cháu không bằng hăm sáu chợ Sêu". Đấy là những câu bà nói vào những ngày áp Tết chợ phiên. Chạy dọc bờ sông, tôi nhớ bà, nhớ tuổi thơ, nhớ cổng làng. Những cơn gió từ sông thổi mãi hồn tôi những vui buồn, dâu bể.
Nguồn VNCA: http://vnca.cand.com.vn/tu-lieu-van-hoa/cong-lang-611943/