Công nghệ mở ra chương mới cho giải trí Việt

Thị trường giải trí nội địa đã trải qua một năm đầy bùng nổ. Việc ứng dụng công nghệ đã mở ra một chương mới, nâng tầm trải nghiệm và phần nào thay đổi diện mạo giải trí Việt.

Đến thời điểm hiện tại, phần nào đã có thể nhận định công nghiệp giải trí nội địa đã trải qua một năm khá bùng nổ. Ở địa hạt điện ảnh, rạp Việt mang đến kết quả ngoài sức tưởng tượng, khi liên tiếp những kỷ lục bị phá, và số tác phẩm đạt doanh thu trăm tỷ đã lên tới 14 phim, gần gấp 3 năm ngoái. Trong khi đó, thị trường âm nhạc cũng chứng kiến hàng chục concert với quy mô vài chục nghìn khán giả được tổ chức thành công, cùng với đó là không ít ngôi sao quốc tế chọn Việt Nam là điểm đến.

Trong thành công đó, khó có thể phủ nhận vai trò của việc chuyển đổi, ứng dụng công nghệ vào việc sản xuất, tổ chức các hoạt động giải trí. Nếu các concert hoành tráng của Yeah1 và DatVietVAC đã và đang tạo ra một tiêu chuẩn mới về thưởng thức âm nhạc ở Việt Nam, thì điện ảnh 2025 cũng không kém cạnh với những bộ phim có sự đồ sộ, chi tiết hiếm thấy, tiêu biểu là Địa đạoMưa đỏ.

Theo chuyên gia, chính việc ứng dụng công nghệ đã trở thành yếu tố then chốt, góp phần tạo nên những bước bứt phá về quy mô, chất lượng và trải nghiệm, thúc đẩy công nghiệp giải trí nội địa trong thời gian qua. Dù Vậy, ở một số khía cạnh, khoảng cách về công nghệ với các thị trường phát triển trên thế giới vẫn còn khá rõ rệt.

“Công nghệ điện ảnh tiến bộ vượt bậc nhưng vẫn cách xa thế giới”

Trả lời Tri Thức – Znews, anh Nguyễn Trương Kiên, CEO/Founder Zodiac II Media, nhận định trong những năm gần đây, việc ứng dụng công nghệ trong ngành sản xuất phim tại Việt Nam đã có nhiều bước tiến vượt bậc, góp phần nâng cao chất lượng tác phẩm và phần nào rút ngắn khoảng cách với các quốc gia trên thế giới.

“Hiện nay, các công nghệ khá tiên tiến như Motion Control, Motion Capture, Virtual Production, VR/AR, Lidar, AI… đã và đang được các nhà làm phim sử dụng khá nhiều trong những năm gần đây. Ngoài ra, các công nghệ về Visual Effects cũng đang được nâng cấp rất lớn bởi các studio VFX ở Việt Nam, giúp cải thiện rất nhiều về mặt hình ảnh cũng như giúp các đạo diễn kể được những câu chuyện hay và táo bạo hơn, điển hình có các phim như Mưa đỏ, Tử chiến trên không…”, anh cho biết.

Những cảnh phim đầy hoành tráng của Mưa đỏ.

Những cảnh phim đầy hoành tráng của Mưa đỏ.

Theo Nguyễn Trương Kiên, tư duy sản xuất cũng đóng vai trò quan trọng, bởi Việt Nam từng có một giai đoạn phát triển chậm. Tuy nhiên, những năm gần đây, môi trường làm phim đã dần cởi mở hơn, với ngày càng nhiều nhà sản xuất và đạo diễn chủ động tiếp cận, đưa các công nghệ mới vào tác phẩm. Cùng với sự quan tâm của Nhà nước và việc nâng cấp chất lượng của các studio lớn nhỏ, Việt Nam đang đi đúng hướng trên con đường đưa điện ảnh vươn ra thế giới.

Dù vậy, Founder của Zodiac II Media cũng chỉ ra rằng, về mặt công nghệ, Việt Nam hiện mới tiệm cận được Thái Lan. So với các thị trường như Hàn Quốc và Trung Quốc, điện ảnh trong nước vẫn đang bị bỏ lại khá xa.

Đồng quan điểm, anh Trương Huyền Đức – chuyên gia đồ họa của Tử chiến trên không, Thám tử Kiên – cho biết dù trình độ kỹ thuật đã có những bước tiến vượt bậc, nhưng nhìn chung chất lượng vẫn chỉ ở mức bảo đảm các bộ phim đạt được sự “chỉn chu”. Về cơ bản, so với thế giới, điện ảnh Việt vẫn đang vận dụng những công nghệ và kỹ thuật làm phim cũ.

“Cách đây không lâu, nhiều phim Việt vẫn gặp tình trạng lệch hình, lệch tiếng, kỹ xảo sơ sài, hình ảnh thiếu sáng. Ngay cả hiện nay, vẫn còn lác đác những bộ phim có chất lượng kỹ thuật hạn chế, hoặc ngay trong các tác phẩm được đánh giá cao vẫn tồn tại một vài thiếu sót. Chỉ cần lơ là ở một khâu nhỏ, nhiều vấn đề có thể phát sinh. Vì vậy, nhìn chung, điện ảnh Việt vẫn đang cố gắng nắm bắt được các công nghệ cũ để thiết lập những tiêu chuẩn cơ bản nhất”, anh cho biết.

Trương Huyền Đức lấy ví dụ: “Như năm 2019, lần đầu tiên Timecode – công nghệ cho phép đồng bộ định danh cho từng frame khung hình và âm thanh – mới được ứng dụng đầy đủ cho phim Mắt Biếc của đạo diễn Victor Vũ. Timecode được phát minh vào năm 1967 và được chuẩn hóa tại Hollywood từ cuối những năm 1970. Một công nghệ cơ bản và cần thiết đến thế hiện vẫn có phim có, phim không tại Việt Nam. Tín hiệu đáng mừng là hiện số phim Việt Nam được ứng dụng các công nghệ cơ bản như vậy đang tăng dần, các nhà sản xuất cũng đã có sự lưu tâm nhất định”.

Đối với việc ứng dụng AI, Trương Huyền Đức cho biết hiện nay AI vẫn chưa được sử dụng nhiều trong sản xuất phim, chủ yếu nằm ở việc hỗ trợ phát triển kịch bản và previz, phân tích số liệu, seeding trong marketing, cũng như hỗ trợ VFX ở khâu hậu kỳ. Mức độ ứng dụng này, theo anh, là đáng khích lệ và phù hợp với đặc thù của ngành.

Về những rào cản khiến doanh nghiệp và nghệ sĩ Việt chưa tận dụng hiệu quả công nghệ, giám đốc kỹ thuật của Mắt Biếc cho rằng có bốn yếu tố, được xếp theo thứ tự ưu tiên lần lượt là: nguồn vốn, tư duy sản xuất, nhân lực kỹ thuật và cuối cùng là khung pháp lý.

“Bởi hoàn cảnh thực tiễn mà việc các nhà sản xuất tập trung hơn vào kịch bản, diễn xuất, marketing… là hoàn toàn dễ hiểu. Nếu mọi người vẫn xoay quanh các chủ đề drama gia đình hay kinh dị hù dọa thì cần công nghệ mới để làm gì? Nhân lực kỹ thuật cho ngành phim Việt Nam không thiếu, vì các ngành công nghệ khác đều vượt xa, và để chuyển hóa họ thành nhân lực cho ngành phim về cơ bản là không quá khó, quan trọng là có hấp dẫn được họ hay không. Ngoài ra, tôi cũng hy vọng sẽ có các hướng hỗ trợ như vay vốn hay giảm thuế cho phát triển công nghệ điện ảnh”, chuyên gia phân tích.

 Thám tử Kiên có phần hình ảnh "nịnh mắt".

Thám tử Kiên có phần hình ảnh "nịnh mắt".

Trong 1–3 năm tới, Trương Huyền Đức dự đoán công nghệ sẽ tác động rõ nhất đến khâu phân phối, marketing và tương tác với khán giả, bởi hiện nay AI đang làm rất tốt trong việc sáng tạo và sản xuất nội dung ngắn hoặc tùy biến các nội dung có sẵn.

“Chúng ta có thể tưởng tượng đến khả năng phân phối phim Việt Nam nhưng được thay thế bằng các ngôn ngữ khác, không đơn thuần chỉ là lồng tiếng mà các nhân vật trong phim thực sự nói bằng ngôn ngữ đó; hoặc thực hiện các chiến dịch quảng cáo dạng video What If, nơi khán giả có thể nghĩ ra một cái kết khác cho bộ phim. Thậm chí, các bộ phim có thể liên kết để cùng marketing với nhau bằng các nội dung giả định tương tự”.

Anh chốt lại: “Tóm lại, đối với nội dung ngắn, tương lai là một chân trời giàu trí tưởng tượng hơn bao giờ hết. Còn đối với điện ảnh, chúng ta sẽ cần tập trung nhiều hơn vào những giá trị cơ bản.”

“Công nghệ đang thay đổi bộ mặt thị trường âm nhạc”

Ngược lại, đối với thị trường âm nhạc, DTAP nhận định trong vài năm trở lại đây, công nghệ đã tạo ra một sự thay đổi rất rõ rệt, thậm chí trở thành một phần cốt lõi của âm nhạc Việt Nam hiện đại. Từ khâu sản xuất đến cách phát hành và tiếp cận khán giả, gần như mọi bước đều đang được “nâng cấp” nhờ công nghệ.

DTAP giải thích: “Trong quá trình sáng tác và sản xuất âm nhạc, những phần mềm, máy móc và công cụ hiện đại cho phép kiểm soát âm thanh với độ chính xác rất cao. Còn khi bước sang giai đoạn phát hành, các công cụ phân tích dữ liệu từ nền tảng nghe nhạc, mạng xã hội hay AI giúp nghệ sĩ hiểu rõ hơn hành vi khán giả, tiếp cận đúng đối tượng và xây dựng chiến lược phát hành hiệu quả hơn. Sự phát triển của nền tảng số cũng góp phần làm cạnh tranh công bằng hơn”.

Đặc biệt, với concert hay live show, sự khác biệt giữa trước đây và bây giờ là rất lớn. Công nghệ cho phép mọi thứ được đồng bộ hóa gần như tuyệt đối, từ âm thanh – ánh sáng – visual – hiệu ứng sân khấu đều có thể được lập trình và chạy theo thời gian thực. Nghệ sĩ có thể kể một câu chuyện lớn bằng nhiều lớp công nghệ, khiến khán giả được trải nghiệm một không gian âm nhạc sống động hơn trước rất nhiều.

“Nếu trước đây tất cả phụ thuộc vào cảm tính và kinh nghiệm của con người, thì hiện tại, công nghệ giúp rủi ro giảm xuống, độ chính xác tăng lên, còn không gian cho sáng tạo thì mở rộng hơn. Tóm lại, công nghệ không chỉ len lỏi mà còn trở thành một phần cốt lõi, giúp nghệ sĩ sáng tạo nhiều hơn, thị trường vận hành hiệu quả hơn”, chủ nhân giải thưởng Làn Sóng Xanh 2024 nhận định.

 2025 chứng kiến hàng chục concert hoành tráng.

2025 chứng kiến hàng chục concert hoành tráng.

So với các nước trong khu vực, DTAP tin rằng Việt Nam đang ở giai đoạn tăng tốc mạnh nhất: hầu như bất kỳ công nghệ hay giải pháp kỹ thuật nào đang được dùng cho các concert lớn trên thế giới thì Việt Nam đều đã có thể tiếp cận và triển khai; các đội ngũ trong nước hoàn toàn có khả năng vận hành ở mức chuyên nghiệp. Tốc độ học hỏi và thích nghi của các ê-kíp sản xuất, kỹ sư âm thanh – ánh sáng hay đạo diễn sân khấu Việt Nam cũng là rất nhanh.

Ngoài ra, Việt Nam cũng có lợi thế lớn nằm ở việc có một kho tàng văn hóa dân gian và bản sắc lâu đời. Đây là điều mà các công nghệ hiện đại hoặc AI không thể nào sao chép được.

"Các nhà hát chưa đủ tiêu chuẩn biểu diễn nhạc kịch"

Ở địa hạt kịch nghệ, thời gian gần đây, vở diễn Giấc mơ Chí Phèo nhận được nhiều sự quan tâm khi ứng dụng các công nghệ ánh sáng vào nghệ thuật biểu diễn, đặc biệt là trong phân đoạn “múa mộng”.

Theo Dương Cầm – Tổng đạo diễn và NSX âm nhạc của Giấc mơ Chí Phèo, công nghệ được tích hợp như một phần ngôn ngữ dàn dựng của vở diễn, góp phần làm nổi bật thế giới nội tâm nhân vật và mở rộng khả năng biểu đạt. Trong đó, ánh sáng được thiết kế theo tư duy điện ảnh và nhạc kịch hiện đại, nhằm tạo ra nhiều lớp không gian – từ hiện thực, ký ức đến mộng tưởng – đồng thời phản ánh trạng thái tâm lý nhân vật thông qua màu sắc, cường độ và hướng chiếu.

“Phân đoạn múa mộng được xây dựng như một không gian phi hiện thực, nơi cảm xúc và khát vọng của nhân vật thoát khỏi logic đời thường. Ở đó, công nghệ đóng vai trò tạo cảm giác ‘mơ’ thay vì chỉ minh họa động tác. Ánh sáng trừu tượng, các lớp chiếu chồng mở rộng không gian sân khấu, hòa nhịp cùng âm nhạc và chuyển động cơ thể, khiến ranh giới giữa thực và mộng trở nên mờ nhòa”, tổng đạo diễn Giấc mơ Chí Phèo nói.

 Phân đoạn "múa động" trong Giấc Mơ Chí Phèo.

Phân đoạn "múa động" trong Giấc Mơ Chí Phèo.

Theo Dương Cầm, về mặt công nghệ, những thiết bị này không hoàn toàn mới trên thế giới, nhưng tại Việt Nam, việc sử dụng chúng một cách đồng bộ, có chiều sâu nghệ thuật và được lập trình chi tiết cho nhạc kịch vẫn còn khá hiếm. Phần lớn nhà hát hiện nay mới dừng ở mức chiếu sáng cơ bản, chưa khai thác hết tiềm năng biểu đạt của ánh sáng sân khấu.

“Việc ứng dụng công nghệ biểu diễn ở nhạc kịch còn rất chậm so với thế giới. Nguyên nhân không chỉ nằm ở thiết bị, mà còn ở tư duy sử dụng công nghệ và hạ tầng nhà hát. Nhiều nhà hát hiện nay chưa được thiết kế theo tiêu chuẩn nhạc kịch, thiếu không gian hậu đài, thiếu khả năng treo thiết bị, thiếu hệ thống điều khiển đồng bộ. Điều này khiến việc áp dụng các công nghệ sân khấu hiện đại gặp rất nhiều hạn chế, dù con người sáng tạo đã sẵn sàng”, anh chia sẻ thêm.

Về khả năng đưa Giấc mơ Chí Phèo đến biểu diễn tại các địa phương khác, Dương Cầm cho biết đây sẽ là một thách thức lớn về mặt kỹ thuật.

“Để có thể phô bày nhiều lớp đạo cụ, nhiều cảnh biến chuyển và hệ ánh sáng kích thích giác quan, sân khấu không chỉ cần đủ rộng mà phần hậu đài thường phải gấp khoảng ba lần sân khấu chính. Đây là điều mà nhiều nhà hát địa phương hiện chưa đáp ứng được”, anh trăn trở.

Tâm An, Thuận Minh

Nguồn Znews: https://znews.vn/cong-nghe-mo-ra-chuong-moi-cho-giai-tri-viet-post1610656.html