Công nghệ và chuyển đổi số đang giúp ngành than Quảng Ninh chuyển mình
Nhờ đổi mới công nghệ, Công ty CP Than Vàng Danh (Quảng Ninh) giữ đà tăng trưởng ổn định. Dự kiến 6 tháng đầu năm 2025, sản lượng khai thác than đạt trên 2,1 triệu tấn, thu nhập bình quân của người lao động đạt 21,8 triệu đồng/người/tháng…

Nhiều công ty than tại Quảng Ninh ứng dụng công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh và tối ưu hiệu quả vận hành.
Trong bối cảnh ngành Than đang đối mặt với thách thức kép vừa phải tăng sản lượng đáp ứng nhu cầu năng lượng quốc gia, vừa phải tiết giảm chi phí và nâng cao an toàn, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã đẩy mạnh đầu tư đổi mới công nghệ, hiện đại hóa dây chuyền khai thác, áp dụng tự động hóa và chuyển đổi số.
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ ĐỂ TỰ ĐỘNG HÓA
Trong đó, Công ty CP Than Hà Tu là đơn vị tiên phong trong ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số trong sản xuất và quản lý, chẳng hạn như số hóa hồ sơ thiết bị, theo dõi giờ hoạt động, lịch bảo dưỡng và tình trạng kỹ thuật, giúp công tác quản lý trở nên chính xác và chủ động hơn.
Các phần mềm chuyên dụng của KOMATSU, CATERPILLAR cũng đã được đưa vào sử dụng nhằm đọc dữ liệu hộp đen, phân tích hiệu suất vận hành, từ đó đưa ra các phương án điều chỉnh kỹ thuật và đào tạo công nhân sát thực tiễn.
Bên cạnh đó, công ty còn tích cực áp dụng hệ thống định vị GPS để kiểm soát lộ trình di chuyển của thiết bị, qua đó tối ưu hóa lịch trình vận hành, tiết kiệm chi phí và giảm thiểu hao mòn.
Đồng thời, việc sử dụng công nghệ điều khiển tự động trong trạm điện, trạm bơm cũng đang được nghiên cứu đầu tư, thay thế thao tác thủ công, nâng cao độ an toàn và năng suất.
Hiện nay, Công ty CP Than Hà Tu đang xây dựng hệ thống phần mềm quản lý thiết bị toàn diện, ứng dụng AI để phân tích dữ liệu vận hành, dự đoán hỏng hóc, chuyển từ bảo trì thụ động sang bảo trì chủ động.
Đồng thời, đào tạo chuyên sâu cho đội ngũ kỹ thuật và khuyến khích sáng kiến cải tiến tiếp tục được chú trọng.
TÁC ĐỘNG CÔNG NGHỆ ĐƯỢC CHỨNG MINH QUA KẾT QUẢ KINH DOANH
Công ty CP Than Vàng Danh, đơn vị chủ lực của TKV, cũng đang khẳng định vai trò tiên phong trong đổi mới sáng tạo, hướng đến xây dựng mô hình mỏ hiện đại, an toàn và hiệu quả.
5 năm qua, Công ty đã triển khai 1.211 sáng kiến kỹ thuật, tổng giá trị làm lợi lên tới hơn 47 tỷ đồng. Riêng quý 1/2025, đã có 68 sáng kiến được công nhận, tập trung vào cải tiến thiết bị, hợp lý hóa dây chuyền sản xuất và nâng cao tuổi thọ dụng cụ. Những sáng kiến này không chỉ tiết kiệm chi phí, tăng sản lượng mà còn trực tiếp cải thiện môi trường làm việc, giảm sức lao động thủ công và tăng tính an toàn trong hầm lò.
Một trong những bước tiến nổi bật là việc áp dụng thành công công nghệ cơ giới hóa đồng bộ tại lò chợ vỉa 7 và vỉa 8 khu Giếng Vàng Danh.
Từ năm 2020 đến nay, mỗi năm hệ thống này đóng góp trung bình 450.000 tấn than, tương đương 17,5% sản lượng khai thác hầm lò của Công ty. Bên cạnh đó, việc áp dụng công nghệ khấu lò xiên chéo bằng giàn mềm ZRY tại 2 đến 3 lò chợ và cơ giới hóa đào lò bằng máy EBH-45 đã tạo bước chuyển lớn trong công tác đào lò, với sản lượng trung bình đạt 2.000-2.300m mỗi năm.
Than Vàng Danh đang tiếp tục đẩy mạnh đầu tư các dây chuyền hiện đại như máy Combai đào lò đá cho các dự án xuống sâu mức -175, hướng tới tự động hóa toàn diện trong vận tải tuyến lò chợ và khâu bốc xúc. Những thiết bị này không chỉ tăng tốc độ đào lò, mà còn giảm thiểu rủi ro cho công nhân trong môi trường làm việc khắc nghiệt.
Nhờ đổi mới công nghệ, Than Vàng Danh giữ vững đà tăng trưởng ổn định. Dự kiến 6 tháng đầu năm 2025, sản lượng khai thác than đạt trên 2,1 triệu tấn, thu nhập bình quân của người lao động đạt 21,8 triệu đồng/người/tháng.
Những năm gần đây, TKV đã có bước chuyển mình rõ rệt về tư duy và cách làm khi đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật vào khai thác than, khoáng sản. Nhiều khâu trong dây chuyền sản xuất giờ đây đã được cơ giới hóa, tự động hóa, góp phần giảm sức lao động, tăng năng suất và đảm bảo an toàn hơn cho thợ mỏ.
Nhiều công đoạn vốn thủ công trước đây giờ đã được tự động hóa, cơ giới hóa, giúp tăng năng suất và giảm thiểu rủi ro cho người lao động. Tại các đơn vị như: Công ty CP Than Hà Lầm, Than Mạo Khê, Than Hòn Gai, Than Nam Mẫu,… những thiết bị hiện đại như máy đào lò EBH-45, máy Combai và các lò chợ cơ giới hóa không còn là thí điểm mà đã trở thành lực lượng sản xuất chủ lực, đóng góp từ 15-20% tổng sản lượng hầm lò.