Công nghiệp quốc phòng Mỹ và cuộc cạnh tranh khốc liệt
Sự phát triển ngày càng tăng của các nước như Trung Quốc đang tạo nên áp lực lớn đối với các công ty quốc phòng Mỹ trong việc duy trì vị trí dẫn đầu của ngành công nghệ quốc phòng toàn cầu.
Và mặc dù các công ty quốc phòng Mỹ đã tạo ra những đổi mới trong công nghệ quốc phòng và hàng không vũ trụ nhưng thời thế đang thay đổi, buộc Lầu Năm Góc phải xem lại chiến lược cạnh tranh của mình.
14 công nghệ quan trọng
Hãng tin CNN cho hay, hôm 15-2, Lầu Năm Góc đã công bố chiến lược thúc đẩy cạnh tranh trong lĩnh vực quốc phòng. Đây là một phần trong chiến lược tổng thể của Tổng thống Joe Biden nhằm thúc đẩy cạnh tranh trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là nhằm ngăn chặn lạm phát trong nền kinh tế bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19.
Tờ The Hill dẫn lời một quan chức cấp cao giấu tên nói rằng sự cạnh tranh trong ngành công nghiệp quốc phòng “rất quan trọng đối với Bộ Quốc phòng Mỹ vì nó cải thiện chi phí và hiệu suất cũng như thúc đẩy sự đổi mới nhiều hơn cho các sản phẩm và dịch vụ cần thiết để hỗ trợ quốc phòng”.
Trước đó, vào hồi tháng 7-2021, Tổng thống Joe Biden đã ký một sắc lệnh để giải quyết tình trạng thiếu cạnh tranh trong ngành công nghiệp Mỹ, đưa ra 72 hành động. Khi đó, Nhà Trắng cũng nhấn mạnh rằng, "trong hơn 75% các ngành công nghiệp của Mỹ, một số ít các công ty lớn hiện kiểm soát nhiều hoạt động kinh doanh hơn so với cách đây 20 năm" và rằng sự thiếu cạnh tranh này "làm tăng giá đối với người tiêu dùng”.
Riêng trong lĩnh vực quốc phòng, doanh nghiệp nghiên cứu và phát triển của Lầu Năm Góc đã bắt đầu phát triển chiến lược khoa học và công nghệ quốc phòng nhằm vào 14 lĩnh vực bao gồm vũ khí siêu thanh, năng lượng định hướng và khoa học lượng tử…
“Cạnh tranh thành công đòi hỏi phải hình dung khả năng quân sự của chúng ta như một tập thể không ngừng phát triển, chứ không phải một kho vũ khí tĩnh đang được phát triển hoặc duy trì”, Heidi Shyu – chuyên gia cấp cao phụ trách nghiên cứu và kỹ thuật của Lầu Năm Góc nói: “Trong nhiều trường hợp, cạnh tranh hiệu quả được hưởng lợi từ việc bỏ qua các cuộc chạy đua vũ trang đối xứng và thay vào đó đến từ việc áp dụng sáng tạo các khái niệm mới với khoa học và công nghệ mới nổi”. Heidi Shyu khẳng định, chiến lược khoa học và công nghệ quốc phòng mới sẽ được thông báo trong Chiến lược Quốc phòng 2022 của Mỹ và sẽ “củng cố ưu thế công nghệ của quân đội Mỹ giữa cuộc chạy đua toàn cầu về lợi thế công nghệ”.
14 công nghệ mà Lầu Năm Góc coi là quan trọng, được xếp thành ba loại. Nhóm đầu tiên là “các lĩnh vực mầm mống của cơ hội mới nổi” như công nghệ sinh học, khoa học lượng tử, công nghệ không dây thế hệ tương lai và vật liệu tiên tiến.
Nhóm thứ hai là “lĩnh vực áp dụng hiệu quả”, hay nói cách khác, công nghệ đã có sẵn trong lĩnh vực thương mại, bao gồm trí tuệ nhân tạo (AI) và quyền tự chủ; hệ thống mạng tích hợp; hệ thống vi điện tử; công nghệ vũ trụ; sản xuất và lưu trữ năng lượng tái tạo; máy tính và phần mềm tiên tiến; giao diện người-máy. Nhóm chủ đề thứ 3 là "các khu vực dành riêng cho quốc phòng" như năng lượng định hướng, vũ khí siêu thanh, cảm biến tích hợp và không gian mạng.
“Bằng cách tập trung nỗ lực và đầu tư vào 14 lĩnh vực công nghệ quan trọng này, Bộ Quốc phòng Mỹ sẽ đẩy nhanh việc chuyển đổi các khả năng quan trọng sang các dịch vụ quân sự và chỉ huy chiến đấu. Khi chiến lược công nghệ của Bộ phát triển và công nghệ thay đổi, Bộ sẽ cập nhật các ưu tiên công nghệ quan trọng của mình”, Heidi Shyu nói.
Hạ rào cản đối với doanh nghiệp nhỏ
Thực tế, cạnh tranh trong ngành công nghiệp quốc phòng rất quan trọng đối với Lầu Năm Góc trong việc nâng cao hiệu quả, cũng như thúc đẩy sự đổi mới hơn cho các sản phẩm và dịch vụ cần thiết để hỗ trợ quốc phòng.
Các báo cáo gần đây cho thấy, trong 3 thập kỷ qua, Bộ Quốc phòng Mỹ ngày càng phụ thuộc vào một số lượng nhỏ các nhà thầu, trong đó số lượng nhà cung cấp tên lửa chiến thuật đã giảm mạnh từ 13 xuống còn 3 và số lượng nhà cung cấp máy bay cánh cố định giảm từ 8 xuống 3, 90% tên lửa đến từ 3 nhà cung cấp. Vì thế, Lầu Năm Góc quyết định sẽ tăng cường giám sát đối với các vụ sáp nhập, đặc biệt là làm việc với Ủy ban Thương mại liên bang và Bộ Tư pháp Mỹ nếu đề xuất sáp nhập ảnh hưởng đến ngành công nghiệp quốc phòng.
Bộ Quốc phòng Mỹ cũng sẽ giải quyết những hạn chế về quyền sở hữu trí tuệ và nỗ lực để thu hút những công ty tham gia vào ngành công nghiệp quốc phòng thông qua tiếp cận các doanh nghiệp nhỏ và sử dụng các cơ quan mua lại khác nhằm giảm bớt các rào cản gia nhập đối với các doanh nghiệp mới; thực hiện các bước để đảm bảo khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng trong một số lĩnh vực như tên lửa và vũ khí, dự trữ năng lượng và pin, vật liệu chiến lược và vi điện tử.
Bình luận về vấn đề này, tờ InsideDefense viết: “Chiến lược mới về cạnh tranh công nghiệp quốc phòng được đưa ra cùng tuần khi Lockheed thực hiện kế hoạch mua lại nhà sản xuất linh kiện Aerojet trị giá 4,4 tỷ USD. Thỏa thuận này đang là mục tiêu của một vụ kiện với lập luận rằng việc mua lại sẽ gây tổn hại đến cạnh tranh trong lĩnh vực hàng không vũ trụ quốc phòng bằng cách loại bỏ các đối thủ của Lockheed khỏi một nhà cung cấp chính. Ngoài ra, Bộ Quốc phòng cũng muốn giải quyết các vấn đề về "khóa nhà cung cấp", quyền sở hữu trí tuệ và dữ liệu có thể cản trở cạnh tranh”.
Trước đó, Bộ Quốc phòng Mỹ cũng chỉ rõ: “Lầu Năm Góc sẽ thực hiện các phương pháp hay nhất để sớm xác định nhu cầu sở hữu trí tuệ dài hạn của mình trong các giai đoạn cạnh tranh của các chương trình mua lại, đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ là một yếu tố đánh giá trong các cuộc cạnh tranh và là mục tiêu đàm phán với các nhà cung cấp".
Một số nhà phân tích thì nhận định, để thu hút nhiều công ty hơn, Lầu Năm Góc muốn tăng cường tiếp cận các doanh nghiệp nhỏ thông qua các cơ quan mua bán linh hoạt, chẳng hạn như các thỏa thuận giao dịch khác và mở các giải pháp thương mại. Bộ Quốc phòng Mỹ đã làm thử việc này đối với nhu cầu nghiên cứu và phát triển vaccine, phương pháp điều trị COVID-19 (tăng gấp đôi trong 2 năm qua) và đang "khuyến khích thiết kế, thực hiện dự án linh hoạt, nhanh hơn và rẻ hơn".
Một báo cáo của Văn phòng trách nhiệm Chính phủ từ tháng 10-2021 cho thấy, hợp đồng của Lầu Năm Góc đối với các doanh nghiệp nhỏ năm 2011 đến năm 2020 đã tăng và đạt hơn 80 tỷ USD nhưng ngày càng ít doanh nghiệp tham gia; trong số này, 83% dành cho các dự án nghiên cứu và phát triển, 28% dành cho lĩnh vực sản xuất.
Mở rộng vốn tư nhân trong không gian quốc phòng
Theo Đạo luật Chi tiêu quốc phòng (NDAA) cho năm tài chính 2022 mà Tổng thống Joe Biden đã ký hồi cuối tháng 12-2021, ngân sách là 770 tỷ USD, trong đó có các khoản chi cho việc tăng 2,7% lương cho quân nhân, mua sắm thêm máy bay và tàu chiến bên cạnh việc xây dựng các chiến lược đối phó với những nguy cơ địa chính trị từ bên ngoài.
Ngân sách quốc phòng Mỹ năm 2022 cũng bao gồm 300 triệu USD cho Sáng kiến hỗ trợ an ninh Ukraine, 4 tỷ USD cho Sáng kiến phòng thủ châu Âu, 150 triệu USD cho Hợp tác an ninh Baltic và khoảng 7,1 tỷ USD cho sáng kiến liên quan tới an ninh khu vực Thái Bình Dương. Giới quan sát cho rằng, giờ đây, các đề xuất bổ sung chi tiêu cho ứng phó với đại dịch COVID-19 đã làm khuấy động cơn sóng ngầm về ngân sách ở Mỹ.
Chính quyền Tổng thống Joe Biden không có khả năng theo đuổi việc cắt giảm sâu đối với quốc phòng, nhưng cũng sẽ không cung cấp mức tăng trưởng thực tế từ 3% đến 5% mà các nhà lãnh đạo Bộ Quốc phòng dưới thời Tổng thống Donald Trump từng cho là cần thiết để tài trợ cho Chiến lược Quốc phòng năm 2018 (một mức mà ngay cả chính quyền Trump cũng không cung cấp được).
Đồng thời, ngành công nghiệp quốc phòng Mỹ còn phải đối mặt với những thay đổi trong quá trình mua lại hơn nữa đã xuất hiện trong thập kỷ qua và buộc phải sử dụng ngày càng nhiều các “cơ quan giao dịch khác" và các phương tiện khác để tham gia vào quá trình tạo mẫu cũng như tận dụng các khoản đầu tư công nghệ thương mại. Những áp lực này sẽ càng khiến các nhà cung cấp quốc phòng lâu năm cảm thấy bị siết chặt hơn khi Bộ Quốc phòng ngày càng cố gắng lôi kéo các công ty thương mại phục vụ nhu cầu của mình.
Thực tế, Bộ Quốc phòng và cộng đồng tình báo Mỹ từ lâu đã tìm cách chuyển các yêu cầu theo định hướng doanh nghiệp sang các mô hình kinh doanh thương mại và các nhà cung cấp, những gã khổng lồ công nghệ hàng đầu như Microsoft và Amazon để đảm bảo các hợp đồng lớn với các cơ quan quốc phòng. Và ngay cả trong các khu vực định hướng nhiệm vụ, Bộ Quốc phòng ngày càng mở cửa cho các nhà cung cấp phi truyền thống với hy vọng rằng các quy trình phát triển hợp lý hơn sẽ thu hút các công ty thương mại cạnh tranh cho các chương trình quân sự.
Có những dấu hiệu cho thấy việc này đang đạt được tiến bộ thực sự: SpaceX chia sẻ vai trò Khởi động không gian an ninh Quốc gia với United Launch Alliance; Microsoft đang cung cấp Hệ thống tăng cường hình ảnh tích hợp cho quân đội, Palantir đã ký hợp đồng cho Hệ thống mặt đất phân tán chung của quân đội, và General Motors đã giành được hợp đồng xe bộ binh của quân đội Mỹ vào năm 2020.
“Bản chất của chiến lược là ưu tiên các nguồn lực và hành động để đạt được các mục tiêu trong điều kiện hiện tại. Có thể thấy những thay đổi trong công nghiệp quốc phòng Mỹ đều dựa trên các xu hướng mới nổi. Chẳng hạn, việc hợp nhất của Raytheon và United Technologies thể hiện một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm mạnh mẽ về sự tương thích giữa công nghệ hàng không quốc phòng và thương mại, các lĩnh vực thị trường. Vốn tư nhân đã xâm nhập vào nhiều lĩnh vực trong vài thập kỷ qua và trong thị trường quốc phòng, các công ty tư nhân cùng ghi dấu ấn nhiều hơn so với những gì mà hầu hết các nhà quan sát có thể đoán cách đây 20 năm.
Trong các lĩnh vực như phóng vào không gian, hệ thống không người lái và phân tích dữ liệu…, các công ty tư nhân đã thay đổi cơ bản về cục diện. SpaceX, General Atomics và Sierra Nevada đều là những ví dụ về việc các công ty tư nhân cạnh tranh trong các lĩnh vực công nghệ quốc phòng phức tạp.
Phạm vi các công ty thuộc sở hữu vốn tư nhân cạnh tranh trong không gian quốc phòng và tình báo thậm chí còn rộng hơn. Điều này có thể sẽ tiếp tục. Năm 2020, ngày càng có nhiều lời bàn tán về việc các công ty quốc phòng công khai sẽ được tiếp quản bởi các nhà đầu tư tư nhân. Tháng 1-2020, Cobham được mua lại bởi Advent International Corp.
Mùa thu năm đó, các nhà đầu tư hoạt động đang định hướng theo đuổi Cubic với ý định tương tự. Đây có thể là sự khởi đầu của một xu hướng dần dần làm cho ngành công nghiệp quốc phòng có khả năng chấp nhận rủi ro cao hơn và do đó đổi mới hơn so với trước đây. Và đó cũng sẽ là một sự phát triển mà Lầu Năm Góc hướng tới”, tờ War on the rock phân tích.