Công nghiệp Việt Nam bước vào quỹ đạo tăng trưởng mới
Sản xuất công nghiệp Việt Nam trong 8 tháng năm 2025 ghi nhận bước tăng trưởng, phản ánh sự hồi phục mạnh mẽ của nhiều ngành chế biến chế tạo.
Cơ cấu ngành công nhiệp hướng về tiêu chuẩn quốc tế
Theo báo cáo mới nhất của Bộ Công Thương, đẩy mạnh đầu tư công cũng đồng nghĩa với việc gia tăng sản lượng vật liệu xây dựng, thiết bị cơ điện, logistics và dịch vụ hỗ trợ thi công. Tuy nhiên, sản xuất công nghiệp chế biến phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu có nguy cơ gặp khó khăn trong việc đảm bảo nguồn cung ổn định, đảm bảo kế hoạch sản xuất và đảm bảo thời gian giao hàng từ nay đến cuối năm. Giá bán một số sản phẩm giảm trong khi chi phí đầu vào tăng tạo ra sự thận trọng trong cộng đồng doanh nghiệp công nghiệp.

Chế biến chế tạo tiếp tục là động lực lớn nhất của ngành công nghiệp. Ảnh minh họa.
Đáng chú ý, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 8 tăng 2,2% so với tháng 7 và tăng 8,9% so với cùng kỳ. Tính chung tám tháng, IIP tăng 8,5%, tương đương cùng kỳ 2024. Đáng chú ý, sự phục hồi này không chỉ tập trung ở một vài ngành mà lan tỏa ra nhiều lĩnh vực chủ chốt.
Chế biến chế tạo tiếp tục là động lực lớn nhất với mức tăng 10% so với cùng kỳ. Các ngành bứt phá gồm sản xuất ô tô tăng gần 60%, dệt may tăng 13,9%, da giày tăng 13,4%, cao su - nhựa tăng 17,5% và khoáng phi kim loại tăng 15%. Trong khi đó, khai thác dầu khí suy giảm, với dầu thô giảm 1,3% và khí tự nhiên giảm 9,4%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp so với cùng kỳ 8 tháng của 18/34 tỉnh tiếp tục tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng chung: Phú Thọ tăng 26,2%; Ninh Bình tăng 22,8%; Huế tăng 18,7%; Nghệ An tăng 16,4%; Quảng Ninh tăng 15,6%; Bắc Ninh tăng 15,4%; Tây Ninh tăng 15,2%; Hải Phòng tăng 14,5%; Thanh Hóa tăng 14,2%; Đồng Nai tăng 14,0%; An Giang tăng 13,9%; Lai Châu tăng 13,6%; Đồng Tháp tăng 12,9%; Đăk Lăk tăng 12,4%; Đà Nẵng tăng 12,0%; Quảng Ngãi tăng 11,7%; Điện Biên và Hưng Yên cùng tăng 11,4%.
PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế, Đại học Kinh tế Quốc dân, nhận định: “Nhìn từ cơ cấu, dễ thấy sự phân hóa rõ rệt. Những ngành đáp ứng được tiêu chuẩn xanh, tiêu chuẩn carbon thấp và gắn với nhu cầu tái cơ cấu kinh tế thế giới, như thép, vật liệu xây dựng hay thiết bị điện tử, đang tăng trưởng mạnh. Ngược lại, các ngành truyền thống như khai khoáng, dầu khí suy giảm là điều dễ hiểu”.
Ông nhấn mạnh rằng đây không chỉ là biến động ngắn hạn mà phản ánh xu hướng dịch chuyển dài hạn: “Cơ cấu công nghiệp của Việt Nam sẽ ngày càng nghiêng về chế biến chế tạo có hàm lượng công nghệ và tiêu chuẩn môi trường cao. Những ngành không theo kịp chuẩn mực quốc tế chắc chắn sẽ chậm lại, nhưng đó cũng là sự sàng lọc tất yếu của quá trình phát triển”.
Khi thách thức trở thành động lực
Một điểm sáng được PGS.TS Nguyễn Thường Lạng phân tích là dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Ông cho rằng: “FDI chính là động lực mạnh nhất của công nghiệp Việt Nam hiện nay. Công nghệ, mạng lưới sản xuất toàn cầu đều được mang vào cùng một lúc. Doanh nghiệp FDI vào Việt Nam không chỉ sản xuất để xuất khẩu mà còn kéo theo chuỗi cung ứng, tạo việc làm và mở ra cơ hội kết nối thị trường”.
“Thực tế, nhiều tập đoàn lớn đã đưa vào Việt Nam dây chuyền sản xuất điện tử, điện thoại, thiết bị viễn thông và linh kiện công nghệ cao. Có thời điểm, tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao của Việt Nam còn vượt qua cả Trung Quốc ở một số mặt hàng”, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng nhận định.
Ngoài FDI, chuyển đổi số được coi là điểm sáng thứ hai. PGS.TS Nguyễn Thường Lạng nhận định: “Chuyển đổi số và chuyển đổi chính sách đang trở thành động lực quan trọng. Các doanh nghiệp biết tận dụng công nghệ số sẽ đi rất nhanh và quy mô lớn, còn ai chậm sẽ bị lùi lại hoặc tụt hậu".
Trong ngành ngân hàng, dịch vụ và cả sản xuất, công nghệ số đã giúp giảm chi phí, nâng cao hiệu quả quản trị. Một số doanh nghiệp nông nghiệp và dệt may ứng dụng hệ thống quản lý thông minh để đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu khắt khe, từ truy xuất nguồn gốc đến kiểm soát khí thải carbon.
Ông cho rằng điều này rất đáng mừng. Doanh nghiệp Việt Nam, dù nhỏ và vừa, cũng đã nhận thức rõ vai trò của chuyển đổi số. Trong da giày, may mặc, những ngành vốn có thế mạnh, sự thay đổi này giúp họ bổ trợ tốt cho khu vực FDI, tạo nên bức tranh tăng trưởng cân bằng hơn.
Một điểm sáng đáng chú ý trong phân tích của PGS.TS Nguyễn Thường Lạng là cách Việt Nam tận dụng thách thức từ thương mại toàn cầu. Ông lấy ví dụ: “Khi mức thuế cao với thép, nhôm hay hàng hóa của một số quốc gia, doanh nghiệp Việt Nam lại có thêm cơ hội chen chân vào thị trường. Những gì tưởng chừng là rào cản với nước khác đôi khi lại là động lực cho Việt Nam”.
Ông gọi đây là điểm tích cực của hội nhập: “Chúng ta có 17 hiệp định thương mại tự do, mở cửa thị trường rộng lớn. Khi thương mại toàn cầu tái cấu trúc, hàng hóa Việt Nam có thể tận dụng khoảng trống mà các nước khác để lại. Thách thức của họ đôi khi lại chính là cơ hội của chúng ta".
Tuy nhiên, để biến cơ hội thành lợi ích thật sự, ông lưu ý cần cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh trong nước. Chi phí hành chính, logistics, thủ tục tuân thủ vẫn còn cao. Nếu không cắt giảm được các loại chi phí vô hình này, lợi thế về lao động và đất đai giá rẻ sẽ không còn đủ sức cạnh tranh.
Mặc dù đối mặt với chi phí đầu vào tăng, xuất khẩu biến động và nhu cầu nội địa chững lại, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng vẫn tin tưởng triển vọng công nghiệp Việt Nam. Ông phân tích: “Nhu cầu hàng công nghiệp cơ bản như vật liệu xây dựng, thép, xi măng vẫn rất lớn nhờ đầu tư công. Các mặt hàng điện tử và dệt may tiếp tục có thị trường ổn định. Tôi cho rằng quý IV sẽ tăng trưởng cao hơn ba quý trước và cả năm 2025 có thể vượt mức trung bình của ba quý đầu".
Về dài hạn các chuyên gia khác cũng cho rằng xu hướng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp sẽ tiếp tục. Ngành năng lượng sạch, năng lượng tái tạo sẽ trở thành trọng tâm. Nếu Việt Nam đẩy nhanh chuyển dịch năng lượng, chúng ta có thể bắt kịp tiêu chuẩn quốc tế và tránh nguy cơ tụt hậu. Bên cạnh đó, cơ hội trong thương mại tự do là vô hạn. Vấn đề là doanh nghiệp Việt phải chuẩn bị kỹ hơn về nghiên cứu, phát triển, xây dựng chuỗi cung ứng chuyên nghiệp, và quan trọng nhất là nâng cao sức cạnh tranh nội tại. Khi đó, công nghiệp Việt Nam không chỉ tăng trưởng theo chiều rộng mà còn tạo nền tảng bền vững cho giai đoạn sau 2025.