Công suất đỉnh hệ thống điện giảm
Số liệu cập nhật sáng 19/6 của Trung tâm Điều độ hệ thống điện Quốc gia (A0) cho thấy, ngày 18/6, phụ tải toàn hệ thống điện giảm so với ngày 17/6, đạt khoảng 722,9 triệu kWh.
Trong đó, miền Bắc ước khoảng 361,6 triệu kWh, miền Trung khoảng 73,6 triệu kWh (tăng), miền Nam khoảng 278,2 triệu kWh. Công suất đỉnh hệ thống điện (Pmax) quốc gia đạt đỉnh vào lúc 14h30 mức 32.682 MW.
Trong ngày 18/6/2023, tổng sản lượng huy động từ thủy điện khoảng 110,6 triệu kWh (trong đó miền Bắc huy động là 40,9 triệu kWh) giảm sâu so với ngày 17/6; nhiệt điện than huy động 423,4 triệu kWh (miền Bắc 267,3 triệu kWh); tuabin khí huy động 74,2 triệu kWh. Không phải huy động nguồn điện dầu.
Nguồn điện năng lượng tái tạo nối lưới đạt 70,6 triệu kWh, trong đó điện gió huy động 26,5 triệu kWh, Pmax 1.827 MW(15h00); điện mặt trời farm huy động 44,1 MW, Pmax 5.563,2 MW (15h00).
Tổng sản lượng huy động trong ngày đạt 267,3 triệu kWh. Một số tổ máy giảm phát do sự cố. Đơn cử, nhiệt điện Thăng Long hòa lưới tổ máy 1 lúc 9h40 sau sự cố nhưng đến 11h34 bị sự cố trở lại (chỉ phát 80MW), dự kiến thời gian xử lý khoảng 5 ngày.
Nhiệt điện Mông Dương 1 ngừng phát do sự cố tổ máy 1 lúc 16h15, lúc 22h12 đã hòa lưới trở lại 1 phần. Đêm qua, tổ máy S3 nhiệt điện Ninh Bình cũng đã hòa lưới sau sự cố ngày 16/6. Tổ máy S1 nhiệt điện Nghi Sơn cũng đang ngừng để xử lý sự cố.
Theo thông tin từ Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương), tính đến sáng ngày 19/6, dù lưu lượng nước về thấp nhưng mực nước các hồ thủy điện ở miền Bắc tăng nhẹ hơn so với ngày hôm qua.
Cụ thể, mực nước các hồ đã vượt mực nước chết (hồ Thác Bà xấp xỉ mực nước chết), mực nước tăng nhẹ (mực nước hồ/ mực nước chết): Hồ Lai Châu đạt 278.99/265m; Hồ Sơn La đạt 178.71/175m; Hồ Hòa Bình ở mức 102.68/80m; Hồ Thác Bà đạt 46.49/46 m; Hồ Tuyên Quang ở mức 95.99/90m; Hồ Bản Chát đạt 437.45/431m.
Mực nước các hồ ở mực nước tối thiểu theo quy định của Quy trình vận hành, giảm nhẹ so với ngày hôm qua (mực nước hồ/ mực nước chết): Hồ A Vương 362.63/340m (qui định tối thiểu 358.5 - 360.8m); Hồ Đăkđrink 400.96/375 (qui định tối thiểu 395.1 - 396.7m); Hồ Sông Bung 4 218.21/205m (qui định tối thiểu 213.5 - 215.2m); Hồ Sông Tranh 2 158.45/140m (qui định tối thiểu 156.3 - 157.4m); Hồ Sông Ba Hạ 102.77/101m (qui định tối thiểu 102.4 - 103.2m); Hồ Sông Hinh 204.30/196m (qui định tối thiểu 203 - 203.7m)
Khu vực Tây Nguyên: Hồ Buôn Kuốp 113 m3/s; Hồ Buôn Tua Srah 56m3/s; Hồ Đại Ninh 64m3/s; Hồ Hàm Thuận 134 m3/s; Hồ Đồng Nai 3 18m3/s; Hồ Ialy 283m3/s; Hồ Pleikrông 59m3/s; Hồ Sê San 4 5m3/s; Hồ Thượng Kon Tum 12m3/s;
Mực nước các hồ ở mực nước tối thiểu theo quy định của Quy trình vận hành, tăng nhẹ so với ngày hôm qua (mực nước hồ/ mực nước chết): Hồ Buôn Kuốp 410.91/409m; Hồ Buôn Tua Srah 470.38/465m (qui định tối thiểu 467.5 - 470.4m); Hồ Đại Ninh 865.50/860m (qui định tối thiểu 862.4 - 864m); Hồ Hàm Thuận 583.38/575m (qui định tối thiểu 578.8 - 580.7m); Hồ Đồng Nai 3 571.67/570m (qui định tối thiểu 571.5 - 572.8m); Hồ Ialy 503.84/490m (qui định tối thiểu 491.5m); Hồ Pleikrông 545.84/537m (qui định tối thiểu 543.3m); Hồ Sê San 4 211.29/210m (qui định tối thiểu 210.3m); Hồ Thượng Kon Tum 1146.57/1138m (qui định tối thiểu 1140.2m).
Hiện, Bộ Công Thương và Tập đoàn Điện lực Việt Nam sẽ tiếp tục chỉ đạo các đơn vị liên quan tăng cường các nguồn điện, vận hành linh hoạt hồ chứa trong bối cảnh các hồ thủy điện gặp khó khăn; đôn đốc các nhà máy nhiệt điện tập trung ưu tiên xử lý sự cố các tổ máy; đảm bảo cung ứng than, khí cho phát điện; tích cực bổ sung các nguồn điện năng lượng tái tạo cho hệ thống; tăng cường vận hành an toàn hệ thống truyền tải Trung - Bắc; đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tiết kiệm điện...
Nguồn KTĐT: https://kinhtedothi.vn/cong-suat-dinh-he-thong-dien-giam.html