Công tố viên: Không có căn cứ cho rằng bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn AIC đã chết

Tại phần đối đáp, đại diện VKS thực hành quyền công tố tại tòa cho rằng đủ căn cứ kết tội bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn và không có căn cứ cho rằng bị cáo này không còn tồn tại hay đã chết.

Ngày 12-7, TAND TP.HCM tiếp tục phiên xét xử 14 bị cáo về các tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng; đưa hối lộ; nhận hối lộ và lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ xảy ra tại Sở KH&ĐT TP.HCM, Công ty AIC và Trung tâm công nghệ sinh học TP.HCM.

Sau khi nghe các luật sư bào chữa, đại diện VKSND đối đáp lại quan điểm của các luật sư.

Trong vụ án này, bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn (cựu chủ tịch HĐQT Công ty AIC) bị VKS đề nghị mức án 22 - 24 năm tù về hai tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng và đưa hối lộ.

Bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn được xác định đã bỏ trốn và bị đưa ra xét xử vắng mặt. Tuy nhiên, bà Nhàn có 5 luật sư bào chữa tại tòa gồm 3 luật sư gia đình mời, 2 luật sư chỉ định.

Các luật sư bào chữa cho bà Nhàn cho rằng không thể xác định bà đang bỏ trốn. Bà Nhàn xuất cảnh ngày 19-6-2021 mà không bị áp dụng bất kỳ hạn chế nào như tạm hoãn xuất cảnh, cấm đi khỏi nơi cư trú.

Luật sư cho rằng không có căn cứ để khẳng định bà Nhàn biết được việc mình bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và cần thiết nhận định tình trạng của bà Nhàn là không biết rõ đang ở đâu chứ không phải bỏ trốn. Trường hợp không xác định được bị can đang ở đâu thì buộc phải tạm đình chỉ vụ án đối với bị can mà không thể ra kết luận điều tra, hoặc truy tố ra trước tòa án.

 Công tố viên đối đáp lại quan điểm các luật sư bào chữa. Ảnh: HOÀNG GIANG

Công tố viên đối đáp lại quan điểm các luật sư bào chữa. Ảnh: HOÀNG GIANG

Đối đáp lại, theo đại diện VKSND TP.HCM, căn cứ BLTTHS, gồm: Khoản 1 Điều 229 quy định CQĐT ra quyết định tạm đình chỉ khi không rõ bị can ở đâu. Khoản 1 Điều 247, VKS ra quyết định tạm đình chỉ khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can ở đâu. Khoản 1 Điều 281, thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định tạm đình chỉ vụ án khi không rõ bị can, bị cáo đang ở đâu. Khoản 1 Điều 231 quy định về việc truy nã bị can khi bị can bỏ trốn hoặc không biết rõ bị can ở đâu, thì CQĐT phải ra quyết định truy nã bị can.

Như vậy, thuật ngữ bị can bỏ trốn và không biết rõ bị can, bị cáo đang ở đâu là như nhau và để xác định việc bị can bỏ trốn.

Trong vụ án này, bị cáo Nhàn đang truy nã, không có ở nơi cư trú, không thực hiện như triệu tập để nhận các quyết định tố tụng dù đã thông báo cho cá nhân và đăng tin công khai trên phương tiện đại chúng. Nên việc bị can đã xuất cảnh trước đó hay chưa có thông tin xuất cảnh đều thuộc trường hợp bị truy nã.

 Bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn. Ảnh: PLO

Bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn. Ảnh: PLO

VKS cũng nêu quan điểm, kết quả điều tra xác định, Nhàn là người có vai trò chủ mưu; các bị cáo Trần Đăng Tấn, Trần Mạnh Hà và Đỗ Vân Trường thực hiện hành vi phạm tội liên quan liên quan các bị cáo khác nên xét xử vắng mặt đối với các bị cáo đã bỏ trốn là hoàn toàn đúng quy định, giải quyết triệt để vụ án.

Đặc biệt đảm bảo trách nhiệm dân sự của các bị cáo bỏ trốn. Nếu tạm đình chỉ thì sẽ gây khó khăn, vì các bị cáo tạm đình chỉ không phải chịu trách nhiệm hình sự, dân sự, trong khi bị cáo làm công, hưởng lương không hưởng lợi phải chịu thay cho các bị cáo này.

Theo VKS, có quan điểm cho rằng bị cáo Nhàn và các bị cáo đang bỏ trốn không còn tồn tại hay là đã chết là không có căn cứ. Vì trường hợp nếu đủ căn cứ, cơ quan tố tụng sẽ không điều tra, truy tố, xét xử mà sẽ có các thủ tục khác theo đúng quy định pháp luật.

Bên cạnh đó, với tài liệu chứng cứ đủ khẳng định vai trò chỉ đạo của Nhàn, dùng Công ty AIC để thông thầu và 3 bị cáo Trần Đăng Tấn, Trần Mạnh Hà và Đỗ Vân Trường giúp sức, có phân công, phân nhiệm. Hành vi phạm tội của bị cáo Nhàn thể hiện thông qua các bị cáo khác nên việc không có lời khai của bị cáo Nhàn cũng có đủ căn cứ kết tội.

Đối với tội đưa hối lộ, căn cứ vào lời khai của bị cáo Dương Hoa Xô về việc đưa tiền cảm ơn và thời gian, số lượng tiền, người đưa tiền phù hợp lời khai của hai bị cáo đưa tiền là Trần Mạnh Hà, Trần Đăng Tấn. Khi đưa tiền đều nói là tiền cảm ơn vì đã tạo điều kiện cho AIC trúng thầu.

Từ đó, có đủ căn xác định, bị cáo Nhàn không tự đưa tiền nhưng duyệt chi cho hai bị cáo Tấn, Hà đưa tiền cho bị cáo Xô. Không thể có quà cảm ơn giá trị lớn nếu người được cảm ơn không làm gì theo yêu cầu của người cảm ơn và việc thỏa thuận là ngầm định.

Vì vậy, VKS xác định đủ căn cứ kết tội bị cáo Nhàn về hai tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng và đưa hối lộ.

SONG MAI

HOÀNG GIANG

Nguồn PLO: https://plo.vn/cong-to-vien-khong-co-can-cu-cho-rang-ba-nguyen-thi-thanh-nhan-aic-da-chet-post800099.html