Cột mốc sống đầu tiên trên biển Đông
Năm 2009, Vùng 2 Hải quân thành lập, Tiểu đoàn DK1 tách ra khỏi Lữ đoàn 171 thành một đơn vị riêng trực thuộc Vùng 2. Từ trước năm 2009, Tiểu đoàn DK1 được gọi là Khung quản lý DK1 thuộc Lữ đoàn tàu săn ngầm 171 Hải quân. Việc xây dựng các nhà giàn DK1 được bắt đầu từ năm 1989. Lực lượng chính xây dựng, chốt giữ trên các 'pháo đài' ấy là cán bộ chiến sĩ của Lữ đoàn 171.
Nhà giàn DK1 thế hệ hiện đại vững chắc giữa thềm lục địa.
Cho đến bây giờ sau 32 năm kể từ ngày nhà giàn Phúc Tần 3 (DK1/3) được dựng giữa biển khơi, Trung tá Nguyễn Tiến Cường - nguyên thuyền trưởng tàu HQ 668 vẫn nhớ như in ngày ông và đồng đội vượt biển ra khơi dựng giàn. “Ngày đó phương tiện dựng nhà giàn thô sơ chứ đâu hiện đại như bây giờ. Tôi là người trực tiếp đi tàu ra đo độ sâu, đánh dấu tọa độ để công binh ra đóng các chân đế nhà giàn. Có thể nói đó là những ngày gian khổ nhất”- ông Cường bắt đầu câu chuyện.
Ông Nguyễn Tiến Cường kể. Sau sự kiện Gạc Ma tháng 3/1988, Đô đốc Giáp Văn Cương đã đề xuất phải gấp rút triển khai việc xây dựng nhà giàn trên thềm lục địa phía Nam. Ngày 6/11/1988, biên đội tàu HQ-713 và HQ-668 đi dựng nhà giàn. Trung tá Phạm Xuân Hoa, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 171 Hải quân làm tổng chỉ huy đi trên tàu HQ-668 .
Chiều ấy, tạm biệt người vợ mới cưới, thuyền trưởng Cường xuống tàu. Vợ anh tiễn chồng ra tận cầu cảng, đôi mắt đỏ hoe. Nhìn vợ, Cường động viên: “Biển rộng lớn nhưng anh nhất định sẽ về”. Cùng tiễn chồng xuống cảng hôm ấy là nhiều người vợ trẻ. Cuộc chia tay bịn rịn, những giọt nước mắt, những lời dặn dò lưu luyến của kẻ ở người đi khiến ai cũng nghẹn ngào. Sau sự kiện Trường Sa năm 1988, đi biển ngày ấy cũng đồng nghĩa với vào chiến trận, không ai biết trước điều gì sẽ xảy ra.
Thời kỳ ấy, tàu hải quân chưa hiện đại như bây giờ, chủ yếu là tàu vỏ sắt nhiều chủng loại. Riêng tàu HQ-668 tiếp nhận về nguyên gốc từ tàu cá của Thái Lan. Với trọng tải 150 tấn, con tàu gỗ nhỏ bé này chật chội không kê được giường. Các chiến sĩ ngủ dàn hàng ngang trên sàn gỗ, tiện chỗ nào thì ngủ chỗ đó chứ không quy định cụ thể.
Ra đi trong gió mùa đông bắc tràn về, biển động dữ dội, con tàu nhỏ bé cứ chồm lên ngụp xuống trong sóng gió. Phương tiện duy nhất trong chuyến hải trình này là chiếc la bàn, hai cuộn dây, sáu cây sào tre để đo độ sâu. Do không có định vị vệ tinh nên sau ba ngày biên đội tàu đã đi lạc vào vùng biển đảo Đá Lát. Đúng lúc đó thì tàu HQ-713 bị vỡ lốc máy. Lệnh của Lữ đoàn trưởng Phạm Xuân Hoa là bằng mọi cách phải khắc phục, sửa chữa. Cạnh đó, tàu HQ-668 khẩn trương tiến về hướng Nam (khu vực bãi cạn Ba Kè), nhanh chóng khảo sát, đo độ sâu.
Dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Cường, các thủy thủ đã dùng dây thừng thắt nút cách nhau từng mét, một đầu buộc đá thả xuống biển. Nước ngập đến đâu, đếm nút thắt dây, tính ra độ sâu đến đó. “Những cây sào dài không phát huy được tác dụng vì dòng chảy mạnh và mực nước sâu đến trên 20m. Tôi vừa đưa cây sào xuống đã bị dòng chảy mạnh làm gãy đôi. Tất cả đều phải nhờ vào sợi dây thừng” - Trung tá Cường kể.
Huấn luyện SSCĐ ở Tàu 11, Lữ đoàn 171 Hải quân.
Sau ba ngày khảo sát, các thủy thủ đã tìm được vị trí tọa độ trùng khớp với tọa độ ghi trên bản đồ, đo được độ sâu tương đối chính xác, thả phao quả nhót đánh dấu. Vị trí khảo sát đầu tiên ở bãi cạn Phúc Tần A đã hoàn thành, các thủy thủ tiếp tục hành trình đến các bãi cạn Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Tần, Phúc Nguyên, Tư Chính và Cà Mau.
Sau 7 tháng khảo sát, đo độ sâu và canh gác, tháng 5/1989, các biên đội tàu của Lữ đoàn 171 và Hải đoàn 129 phối hợp với tàu kéo chuyên dụng của Bộ Giao thông vận tải bắt đầu chở khung nhà giàn cùng vật liệu sắt thép vượt sóng ra bãi cạn Phúc Tần. Giữa biển khơi bao la, giữa cái nắng cháy da cháy thịt, những người thợ đóng giàn ngành dầu khí cùng các chiến sĩ công binh chạy đua với thời gian, chia ca làm việc 24/24 giờ.
Hồi đó phương tiện thông tin thời tiết chủ yếu là nghe Đài Tiếng nói Việt Nam qua chiếc đài bán dẫn nhỏ xíu. Nhiều khi đài báo sóng yên biển lặng nhưng buổi chiều giông gió bất ngờ ập tới, công việc đành phải dừng lại.
Công việc đầu tiên là dọn bãi đặt chân đế pông - tông. Những người thợ lặn đeo bình ôxy, mặc áo nhái lặn sâu xuống đáy biển, dùng vật chuyên dùng san phẳng bãi san hô rồi khoét sâu một lỗ rộng chừng 60m để đặt khối pông-tông vào đó. Khối pông-tông kết cấu bằng thép, bán kính chừng 16m, bơm đầy xi măng vào trong, đánh chìm xuống đáy. Những người thợ lặn vừa phải chống chọi với dòng chảy, vừa “lái” khối pông-tông vào đúng lỗ đã được đào sẵn. Kết nối giữa khối pông-tông và bốn cọc cắm sâu vào san hô là bốn sợi dây xích siêu bền, chịu được sóng to, dòng chảy mạnh.
Rồi tiếp tục kết nối pông - tông và khối thượng tầng. Sau hơn một tháng, ngày 10/6/1989, nhà giàn đầu tiên với tên gọi Phúc Tần (DK1/3) hiện hữu giữa thềm lục địa phía Nam Tổ quốc. Các chiến sĩ và những người thợ lặn nhìn nhà giàn mà trào nước mắt. Những giọt nước mắt sung sướng, tự hào hòa lẫn vào lòng biển mẹ. “Từ thế hệ nhà giàn đầu tiên này, đến nay ta đã có một hệ thống nhà giàn hiện đại, vững chãi trấn giữ ở thềm lục địa phía Nam và trở thành phên giậu của Tổ quốc giữa trùng khơi” - ông Nguyễn Tiến Cường chia sẻ.