Cùng nhìn lại 29 năm Hải Dương và Hưng Yên chung tỉnh Hải Hưng
Hãy cùng phóng viên báo Hải Dương nhìn lại 29 năm Hải Dương và Hưng Yên chung 1 tỉnh Hải Hưng.

Tỉnh Hải Dương và Hưng Yên trong đồng bằng sông Hồng. Ảnh: TUOITRETHUDO.VN
Mốc thời gian đầu tiên phải kể đến là ngày 5/10/1967, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 168 về hợp nhất 2 tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng.
Thời điểm đó, Bộ Chính trị Trung ương Đảng cho rằng việc sáp nhập một số tỉnh ở miền Bắc, trong đó có Hải Dương và Hưng Yên để tạo điều kiện cho các địa phương có thế và lực mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế, tăng cường tiềm lực quốc phòng, đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược.
Ngày 26/1/1968, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết số 504 phê chuẩn việc hợp nhất 2 tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng từ ngày 1/3/1968.
Số báo Hải Hưng đầu tiên đã đăng xã luận “Xây dựng tỉnh Hải Hưng giàu mạnh”.
Theo cuốn Lịch sử tỉnh Hải Dương (tập IV), tỉnh hợp nhất khi đó có diện tích 2.526 km2, chiếm 21,7% diện tích đồng bằng Bắc Bộ. Tỉnh Hải Hưng, phía đông giáp TP Hải Phòng và Quảng Ninh; phía tây giáp Thủ đô Hà Nội và tỉnh Hà Nam; phía bắc giáp tỉnh Hà Bắc và phía nam giáp tỉnh Thái Bình.
Khi hợp nhất, tỉnh có 20 huyện và 2 thị xã, gồm các huyện Ân Thi, Bình Giang, Cẩm Giàng, Chí Linh, Gia Lộc, Khoái Châu, Kim Động, Kim Thành, Kinh Môn, Mỹ Hào, Nam Sách, Ninh Giang, Phù Cừ, Thanh Hà, Thanh Miện, Tiên Lữ, Tứ Kỳ, Văn Giang, Văn Lâm, Yên Mỹ và các thị xã Hải Dương, Hưng Yên. Toàn tỉnh có 407 xã, 5 thị trấn. Dân số khi đó là 1.630.000 người.
Về tôn giáo, phần lớn đồng bào theo đạo Phật, chỉ có khoảng 4% số dân theo đạo Thiên Chúa. Tỉnh có 13 dân tộc, chủ yếu là người Kinh; các dân tộc thiểu số như Sán Dìu, Tày, Hoa… sống tập trung ở 2 xã miền núi Hoàng Hoa Thám và Bắc An của Chí Linh.
Trong một thời gian ngắn, việc sắp xếp bộ máy tổ chức đảng, chính quyền đã hoàn thành. Bí thư Tỉnh ủy đầu tiên là ông Lê Quý Quỳnh. Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh là ông Nguyễn Hoài Bắc. Tỉnh lỵ (trung tâm hành chính) là thị xã Hải Dương.
Thực hiện mục tiêu hợp nhất, tỉnh Hải Hưng đã ra sức xây dựng kinh tế, phát triển nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Những cái tên Hợp tác xã Đại Xuân (Ninh Giang), Nhà máy Sứ Hải Dương là những điển hình được nhắc đến nhiều ở thời kỳ đầu hợp nhất. Năm 1970, Nhà nước đã bảo đảm được trên 13 đồng trong mức ăn 18 đồng của cán bộ, công nhân, tăng 3 đồng so với năm 1968.
Tỉnh ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, chống chiến tranh phá hoại, cùng miền Nam, các tỉnh kết nghĩa Phú Yên và Long An đánh Mỹ. Hải Hưng trở thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn chống quân thù. Đảng bộ, quân và dân Hải Hưng đã đóng góp to lớn vào chiến thắng vĩ đại chưa từng có trong lịch sử dân tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Nhưng hành trình khó khăn vẫn kéo dài sau năm 1975. Đất nước vẫn chưa thoát ra khỏi tình trạng chiến tranh, hết biên giới Tây Nam lại đến phía Bắc. Máu vẫn đổ, vẫn có tổng động viên, nhiều con em Hải Hưng lại lên đường ra trận và ngã xuống.

Ảnh chụp từ cuốn Lịch sử tỉnh Hải Dương (tập IV)
Nhân dân Hải Hưng còn phải vật lộn với khó khăn của thời kỳ bao cấp. Giá trị sản xuất nông nghiệp năm 1982 là 41,087 tỷ đồng nhưng đến năm 1985 giảm còn 37,727 tỷ đồng. Cuộc khủng hoảng giá – lương - tiền diễn ra, đẩy lạm phát lên 774%.
Công cuộc đổi mới do Đảng phát động năm 1986 đã từng bước “giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”. Khi đó, Đảng bộ tỉnh Hải Hưng đặt ra mục tiêu “sớm ổn định kinh tế - xã hội”.
Trong giai đoạn 1986 – 1996, nền kinh tế Hải Hưng từng bước thoát khỏi suy thoái, bước đầu có sự phát triển và tăng trưởng khá. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tuy còn khó khăn nhưng dần được nâng lên. Theo báo cáo tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII (năm 1996), tỷ lệ hộ giàu tăng từ 5% lên 16%; hộ đói, nghèo giảm từ 20% xuống còn 10%; 95% số hộ được sử dụng điện; 90% số hộ có nhà mái ngói…
Nền tảng kinh tế - xã hội của tỉnh hợp nhất đã tạo thuận lợi cho 2 tỉnh Hải Dương và Hưng Yên sau này.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ VII cũng đánh giá về một số hạn chế trong 10 năm đầu thực hiện đổi mới: Lãnh đạo các cấp ủy đảng, chính quyền và các đoàn thể còn chưa phát huy hết khả năng và trách nhiệm, do vậy kết quả đạt được chưa cao so với yêu cầu của đất nước và tiềm năng của địa phương. Về kinh tế chưa khai thác hiệu quả những tiềm năng về cơ sở sở vật chất - kỹ thuật, vốn, đất đai, tri thức, của nhân dân. Quá trình đổi mới quan hệ sản xuất còn nhiều lúng túng. Hiệu quả quản lý của chính quyền các cấp còn nhiều yếu kém, bất cập. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn.
Sau 29 năm hợp nhất, để đáp ứng tình hình, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới, ngày 6/11/1996, Quốc hội khóa IX quyết định chia tách và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, trong đó tách Hải Hưng thành 2 tỉnh Hải Dương và Hưng Yên.
Thực hiện chỉ đạo của Quốc hội, Bộ Chính trị, ngày 25/11/1996, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Hưng khóa VII đã ra Nghị quyết số 02 để lãnh đạo. Nghị quyết nêu rõ: “Việc chia tách tỉnh thực hiện đúng pháp luật của Nhà nước và các nguyên tắc của Đảng. Thực hiện nhanh gọn, phấn đấu đến tháng 1/1997, hai tỉnh làm việc theo đơn vị hành chính mới”.

Ảnh: INTERNET
Quá trình chia tách tỉnh đã diễn ra đúng như trên. Tỉnh Hải Dương được tái lập ngày 1/1/1997. Khi tái lập, tỉnh có thị xã Hải Dương và 8 huyện: Cẩm Bình, Chí Linh, Gia Lộc, Kinh Môn, Nam Thanh, Ninh Giang, Thanh Miện, Tứ Kỳ. Tỉnh Hải Dương có diện tích 1.668,22 km2, dân số 1.685.486 người.
Đã gần 30 năm kể từ ngày tái lập 2 tỉnh Hải Dương và Hưng Yên, tình hình kinh tế - xã hội đã có nhiều đổi khác. 2 tỉnh đều trên đường phát triển và đạt được nhiều thành tựu lo lớn. Năm 2024, Hải Dương có quy mô nền kinh tế trên 212.000 tỷ đồng, đứng thứ 11 cả nước, thu ngân sách nhà nước vượt 30.000 tỷ đồng, GRDP bình quân đầu người tương đương 4.450 USD.
Mặc dù tình hình đã khác nhưng người dân 2 tỉnh Hải Dương, Hưng Yên vẫn giữ tình cảm gắn bó.
Trong bước chuyển mình của đất nước, cùng nhìn lại 29 năm chung tỉnh để hiểu thêm một giai đoạn lịch sử. Ngày nay, việc quản trị xã hội đã thay đổi. Đơn cử nếu như trước đây gặp khó khăn về địa lý thì bây giờ khoảng cách lại ít gây ra trở ngại. Trung ương đang nghiên cứu phương án sáp nhập một số đơn vị hành chính cấp tỉnh. Theo kế hoạch, phương án thích hợp nhất sẽ báo cáo Bộ Chính trị chậm nhất ngày 9/3/2025.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao Đảng ủy Chính phủ chủ trì, phối hợp Ban Tổ chức Trung ương, Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương và các cơ quan liên quan chỉ đạo nghiên cứu, xây dựng đề án, tờ trình Bộ Chính trị về sáp nhập một số đơn vị hành chính cấp tỉnh, không tổ chức cấp huyện, tiếp tục sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã.
Trong đó, đối với cấp tỉnh, ngoài căn cứ về quy mô dân số, diện tích, cần nghiên cứu kỹ quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch địa phương, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phát triển ngành, mở rộng không gian phát triển, phát huy lợi thế so sánh, đáp ứng yêu cầu phát triển đối với từng địa phương và yêu cầu, định hướng phát triển của giai đoạn mới... làm cơ sở, căn cứ khoa học trong sắp xếp.
Đảng ủy Chính phủ khẩn trương triển khai thực hiện, bảo đảm tiến độ cụ thểnhư sau: Báo cáo Bộ Chính trị cho chủ trương trước khi xin ý kiến các cấp ủy, tổ chức đảng chậm nhất ngày 9/3/2025.
Tiếp thu ý kiến Bộ Chính trị, Ban Bí thư, hoàn thiện đề án gửi xin ý kiến các Tỉnh ủy, Thành ủy, Đảng ủy trực thuộc Trung ương, các cơ quan, tổ chức, ban đảng Trung ương chậm nhất ngày 12/3/2025.
Tiếp thu ý kiến góp ý của cácTỉnh ủy, Thành ủy, Đảng ủy trực thuộc Trung ương, các cơ quan,tổ chức, ban đảng Trung ương, hoàn thiện đề án, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư trước ngày 27/3/2025.
Tiếp thu ý kiến Bộ Chính trị, Ban Bí thư, ý kiến các cơ quan, hoàn thiện đề án, tờ trình; trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng (qua Ban Tổ chức Trung ương) trước ngày 7/4/2025.
(Kết luận số 127-KL/TW ngày 28/2/2025 của Bộ Chính trị về triển khai nghiên cứu, đề xuất tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị)