Cười, lẩm bẩm một mình có thể là dấu hiệu rối loạn tâm thần
Nữ sinh từng có biểu hiện cười, nói một mình song vẫn học tốt, nay mất ngủ, lẩm bẩm, ám ảnh bạn bè nói xấu, được chẩn đoán rối loạn tâm thần.
Nữ sinh 14 tuổi, học lớp 9, được bác sĩ chẩn đoán loạn thần nặng, có biểu hiện kích động, thường xuyên cho rằng có người hại mình.

Bác sĩ thăm khám cho một bệnh nhân đang điều trị tại Viện Sức khỏe tâm thần
Nữ sinh lớp loạn thần, ám ảnh bị hại
Theo gia đình, em là học sinh học lực khá, nhưng chịu nhiều áp lực trong học tập. Do kỳ vọng lớn vào bản thân, mong muốn đạt kết quả cao, em dần rơi vào tình trạng căng thẳng, lo âu. Bệnh nhân hiện sống cùng bố mẹ, gia đình không có mâu thuẫn.
Người mẹ cho biết từ năm lớp 6, con đôi khi ngồi cười hoặc nói chuyện một mình, song vẫn học tập, sinh hoạt bình thường nên gia đình không đưa đi khám.
Khoảng một năm trở lại đây, em mất ngủ, thường lẩm bẩm một mình, hay nghĩ rằng bạn bè nói xấu, cười nhạo.
Dù đã được khám và điều trị, sau khi xuất viện, gia đình lo ngại việc uống thuốc ảnh hưởng sức khỏe nên ngừng cho con dùng thuốc.
Ba tháng trước khi nhập viện, em bắt đầu nói năng không liên quan, tin rằng bạn bè có ý đồ xấu, muốn cản trở việc học. Bệnh nhân còn nghe thấy "tiếng nói trong đầu", dễ cáu gắt, đập phá đồ đạc, đánh người xung quanh, ăn uống kém, mất ngủ.
Các bác sĩ chẩn đoán bệnh nhân loạn thần, kích động do tâm thần phân liệt thể paranoid. Trong quá trình điều trị, bệnh nhân có lúc sợ hãi, lo lắng theo chi phối của hoang tưởng, giảm tập trung chú ý, song trí nhớ và trí tuệ vẫn bình thường.
Thực hư việc uống thuốc tâm thần gây lú
Chiều 15-9, chia sẻ thông tin về tình trạng loạn thần ở trẻ em, các bác sĩ Viện Sức khỏe Tâm thần (Bệnh viện Bạch Mai) cho biết loạn thần ở trẻ em là một trong những vấn đề sức khỏe tâm thần cần được quan tâm.
Loạn thần là một trạng thái tâm thần trong đó phán đoán nhận thức và liên hệ thực tại của cá nhân bị xáo trộn. Các triệu chứng gồm hoang tưởng, ảo giác, tư duy vô tổ chức.
Bác sĩ nội trú Nguyễn Thị Hoa, Phó Trưởng phòng Tâm lý lâm sàng, Viện Sức khỏe Tâm thần, cho biết không ít trường hợp học sinh bị loạn thần do tâm thần phân liệt. Nhiều bệnh nhân sau điều trị ổn định có thể quay lại cuộc sống bình thường, song cần duy trì thuốc theo đúng chỉ định.
“Tuy nhiên, khi thấy con đã học tập, sinh hoạt tốt, lại nghe lời khuyên kiểu "uống thuốc nhiều sẽ bị lú" hoặc lo ngại thuốc gây phản ứng phụ nên tự ý dừng. Việc bỏ thuốc khiến trẻ tái phát loạn thần, phải nhập viện điều trị, và lúc này quá trình điều trị sẽ khó khăn hơn nhiều”- bác sĩ Hoa nói.

Bác sĩ Hoa cho biết quan niệm “uống thuốc tâm thần sẽ bị lú” là sai lầm
Bác sĩ Ngô Văn Tuất, Trưởng phòng Rối loạn loạn thần và Y học tự sát, giải thích thêm nhiều người dân vẫn gọi thuốc chống loạn thần là "thuốc lú" nên e ngại, không chấp nhận việc sử dụng.
Với bệnh nhân tâm thần phân liệt, điều trị bằng thuốc là bắt buộc và thường hiệu quả. Ở giai đoạn đầu, người bệnh đáp ứng tốt, nhiều trường hợp gần như trở lại bình thường. Nếu duy trì liên tục, bệnh có thể kiểm soát lâu dài. Ngược lại, tự ý ngừng thuốc dễ khiến triệu chứng tái phát, việc điều trị sau đó khó khăn hơn do não dần thoái hóa.
Thuốc chống loạn thần không gây lú lẫn như nhiều người lầm tưởng, song có thể ảnh hưởng đến chuyển hóa, làm tăng cân. Đây là lý do nhiều bệnh nhân hoặc gia đình tự ý giảm liều, bỏ thuốc, dẫn đến nguy cơ tái phát cao.
"Người bệnh không có lựa chọn "uống hay không", mà bắt buộc phải dùng thuốc đều đặn theo chỉ định để duy trì ổn định"- bác sĩ Tuất nhấn mạnh.

Các bác sĩ chia sẻ thông tin về tình trạng loạn thần ở trẻ em
Bác sĩ Tuất cũng cho biết trường hợp nữ sinh lớp 9 trên rơi vào loạn thần do không được phát hiện, điều trị sớm, cộng thêm áp lực học tập, đặt mục tiêu quá cao dẫn tới stress khởi phát bệnh.
"Điều đáng tiếc là gia đình chưa hiểu đúng bệnh lý. Với tâm thần phân liệt, bệnh nhân phải uống thuốc suốt đời. Khi tuân thủ điều trị, họ có thể sống như người bình thường"- bác sĩ Tuất nói.
Các bác sĩ khuyến cáo phụ huynh đặc biệt lưu ý khi phát hiện dấu hiệu lạ, cần đưa trẻ đi khám chuyên khoa tâm thần để được đánh giá và can thiệp sớm, hạn chế nguy cơ bệnh tiến triển nặng.