Cưỡng đoạt tài sản của nhân viên, nhóm chủ cửa hàng sữa ở Đà Nẵng lãnh án
Nhóm chủ cửa hàng buộc nhân viên đền bù thiệt hại gấp 3 lần; bồi thường sụt giảm doanh số, chi phí thuê nhà, điện nước, chi phí nộp thuế hàng tháng bị tổn thất số tiền 400 triệu đồng và 'tịch thu' xe máy, laptop của 2 nhân viên.
Nhóm chủ cửa hàng kinh doanh sữa tươi vừa bị TAND Tp. Đà Nẵng tuyên án cùng về tội: “Cưỡng đoạt tài sản”. Trong đó, Nguyễn Lê Hoài An (SN 1991, trú quận Liên Chiểu, Tp. Đà Nẵng) và Tăng Thụy Ngọc Hạnh (SN 1981, trú quận Cẩm Lệ, Tp. Đà Nẵng) cùng mức án 5 năm tù; Phạm Thị Mỹ Dung (SN 1991) và Mai Thị Kiên (SN 1991, trú quận Cẩm Lệ, Tp. Đà Nẵng) cùng mức án 4 năm tù.

Các bị cáo tại tòa (ảnh T.H)
Theo cáo trạng, ngày 2/3/2021, nhóm 4 người gồm An, Dung, Kiên và Tăng Thị Ngọc Phúc (SN 1991, trú quận Cẩm Lệ - em gái của bị cáo Hạnh) cùng góp vốn, mở cửa hàng kinh doanh các mặt hàng sữa tươi Milk Farm (địa chỉ tại 170 Hà Tông Quyền, phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ) do An đại diện theo pháp luật.
An thuê 2 nhân viên nhưng không ký hợp đồng lao động là Trần Thị Thiên Chi (SN 2000, trú tỉnh Gia Lai) làm việc từ tháng 2/2022 và chị Phạm Trịnh Sanh Hòa (SN 1993, trú quận Thanh Khê, Tp. Đà Nẵng) làm việc từ cuối tháng 2/2023 để quản lý và bán hàng tại cửa hàng.
Khoảng 8h00 ngày 27/3/2023, nghi ngờ có thất thoát sữa, An, Dung, Kiên yêu cầu 2 nhân viên Hòa và Chi đến cửa hàng kiểm tra, đối chiếu hàng hóa tại kho với hàng hóa thực từ trên hệ thống. Đến khoảng 18h00 cùng ngày, do Tăng Thị Ngọc Phúc đang làm việc tại Tp. Hồ Chí Minh nên nhờ Hạnh (chị gái) đến tham gia kiểm tra cùng với An, Dung và Kiên.
Sau khi hoàn tất việc kiểm tra, nhập số liệu sữa thất thoát, các bị cáo gửi số liệu để Phúc tính toán giá trị. Số tiền thất thoát được xác định hơn 62 triệu đồng. 2 nữ nhân viên thừa nhận không lên đơn khi bán sữa, số tiền thu của khách chưa nhập vào hệ thống quản lý là gần 15 triệu đồng. Tuy nhiên, 2 nhân viên đã mua 42 thùng sữa khắc phục lại cho cửa hàng trước ngày kiểm kê 1 ngày. Cả 2 cam kết tiếp tục bù tiền nếu cuối tháng đối chiếu còn thiếu.
Trong khi chờ Phúc tính giá trị thất thoát, An, Hạnh, Dung và Kiên liên tục tra hỏi Hòa và Chi về lý do thất thoát hàng hóa, cách thức thực hiện. Đồng thời, tạo áp lực bằng cách đe dọa sẽ đưa vụ việc ra cơ quan Công an để giải quyết.
Đến khoảng 20h00 cùng ngày, Phúc gửi bảng tính tổng thiệt hại bằng tiền để lập biên bản. Kiên và Hạnh đưa biên bản kiểm kê hàng hóa, tổng thiệt hại là 62.613.177 đồng. Dựa trên số tiền thiệt hại, An, Hạnh, Dung và Kiên tiếp tục tạo áp lực, đe dọa sẽ tố giác hành vi của Hòa và Chi ra cơ quan Công an để buộc Hòa và Chi phải bồi thường cho cửa hàng.
Hạnh nói quy định của cửa hàng là nhân viên bán hàng không lên đơn thì phải đền bù gấp 3 lần và yêu cầu Hòa và Chi phải đền bù gấp ba. Do sợ vụ việc bị đưa ra Công an, Chi và Hòa đồng ý đền bù thiệt hại cho cửa hàng số tiền gần 188 triệu đồng.
Ngoài ra, Hạnh còn buộc 2 nhân viên này phải bồi thường thêm 400 triệu đồng do làm sụt giảm doanh số, chi phí thuê nhà, điện nước, chi phí nộp thuế hàng tháng bị tổn thất. Hạnh tiếp tục đe dọa sẽ đưa vụ việc ra cơ quan Công an để giải quyết. Vì quá lo sợ, Hòa và Chi đã đồng ý bồi thường tổng số tiền gần 588 triệu đồng.
Chưa dừng lại, 4 bị cáo tiếp tục ép Hòa và Chi phải đưa đủ số tiền nêu trên trong vòng 2 tháng và phải cam kết đưa ra phương án trả số tiền này theo từng đợt cụ thể, nếu chậm trả theo cam kết thì họ sẽ đưa vụ việc ra Công an. Hòa và Chi lo sợ nên đề nghị chia ra làm 3 đợt để khắc phục.
Các bị cáo còn ép buộc Hòa để lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade; 1 máy tính xách tay hiệu Dell; buộc Chi để lại xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision để khắc phục hậu quả.
Đáng chú ý, quá trình điều tra xác định thiệt hại thực tế 27.987.479 đồng, Hòa và Chi đã khắc phục 42 thùng sữa trị giá 14.784.000 đồng, số tiền còn lại 13.203.479 đồng. Do Phúc tính nhầm lẫn đơn vị sản phẩm nên con số thiệt hại lên đến hơn 62 triệu đồng.