Cướp giật tài sản của người khuyết tật: Phải chịu trách nhiệm pháp lý nặng hơn?
Theo luật sư, hành vi cướp giật tài sản của người khuyết tật sẽ bị xử lý nghiêm minh hơn rất nhiều so với một vụ cướp giật thông thường. Tuy nhiên, quyết định cuối cùng về tội danh và hình phạt sẽ phụ thuộc vào việc xác định có hay không mối liên hệ pháp lý giữa hành vi phạm tội và cái chết thương tâm của nạn nhân.

Hình ảnh ghi lại cảnh đôi nam nữ đi xe máy dàn cảnh cướp điện thoại của người phụ nữ khuyết tật ở Tây Ninh. Ảnh cắt từ video
Hành vi đáng lên án
Ngày 24/9, Công an tỉnh Tây Ninh đã bắt giữ Nguyễn Tiến Đạt (26 tuổi, trú tại xã Mỹ An, tỉnh Tây Ninh), một trong hai nghi phạm giả vờ mua hàng rồi cướp điện thoại của người phụ nữ khuyết tật tại phường Long An. Trước đó, lực lượng chức năng bắt giữ Thị Trúc (32 tuổi, quê tại tỉnh An Giang), đồng phạm cùng Đạt gây ra vụ cướp.
Theo báo cáo ban đầu từ UBND phường Long An, tỉnh Tây Ninh lúc 17h47 ngày 21/9, chị N.T.T.T (44 tuổi, bị khuyết tật và mắc bệnh lao phổi) ngồi tại sạp bán thịt, rau củ trước nhà ở khu phố Hướng Bình 1, phường Long An. Khi chị T đang xem điện thoại, một đôi nam nữ đi xe máy tới giả vờ mua ổi rồi bất ngờ giật chiếc điện thoại trị giá khoảng 2,5 triệu đồng rồi bỏ chạy.
Theo người thân của nạn nhân, chiếc điện thoại bị cướp trị giá khoảng 3 triệu đồng, được mấy chị em của chị T mua tặng cho chị để xem phim giải khuây. Từ khi bị cướp giật điện thoại, nạn nhân buồn rầu, suốt 2 ngày không ăn uống gì và qua đời vào ngày 22/9. Đến chiều 23/9, em gái chị T tới Công an phường Long An trình báo sự việc.
Từ lời khai và chứng cứ, công an xác định Đạt cùng Trúc là thủ phạm. Tại cơ quan điều tra, Trúc thừa nhận đã cùng Đạt thuê nhà nghỉ, bàn bạc tìm tài sản để cướp. Chiều 21/9, cả hai thực hiện vụ giật điện thoại của chị T rồi mang đi cầm được 300.000 đồng.
Sau khi gây án, Đạt và Trúc tiếp tục thuê nhà nghỉ ở khu vực cầu Ván. Đến sáng 23/9, Đạt rủ Trúc đi bệnh viện tìm tài sản trộm cắp, nhưng Trúc từ chối. Sau đó Đạt bỏ đi đâu không rõ, đến khi bị công an bắt.
Cướp giật tài sản của người khuyết tật có thể chịu án tù đến 10 năm
Luật sư Đỗ Thị Thanh Nhàn, Đoàn Luật sư TP Hà Nội cho biết, từ nội dung clip và một số thông tin ban đầu cho thấy đôi nam nữ đã giả vờ mua hàng, từ đó tạo ra sự sơ hở của người bán hàng và lợi dụng sự sơ hở đó để chiếm đoạt tài sản là chiếc điện thoại di động và nhanh chóng tẩu thoát. Đây là các dấu hiệu đặc trưng của Tội cướp giật tài sản được quy định tại Điều 171 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tội "Cướp giật tài sản" được Bộ luật Hình sự 2015 quy định thành 04 khung khác nhau, với mức hình phạt thấp nhất là 01 năm tù và cao nhất lên đến chung thân. Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
Trong vụ án nêu trên, nạn nhân là người khuyết tật nên có thể các đối tượng sẽ bị truy tố tội "Cướp giật tài sản" theo khoản 2, Điều 171. Theo đó, phạm tội thuộc một trong các trường hợp: có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; dùng thủ đoạn nguy hiểm; hành hung để tẩu thoát; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%; phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tù từ 3 năm đến 10 năm.
Về tình tiết theo như báo chí đưa tin, sau khi bị cướp điện thoại, nạn nhân buồn rầu, suốt 2 ngày không ăn uống gì và qua đời, luật sư Đỗ Thị Thanh Nhàn cho rằng đây là yếu tố phức tạp nhất của vụ án.
Khoản 4 Điều 171 Bộ luật Hình sự có quy định về tình tiết định khung “làm chết người”. Tuy nhiên trong thực tế, tình tiết này thường được áp dụng đối với các trường hợp cướp giật dẫn đến sự té ngã của nạn nhân như cướp giật của người đang điều khiển phương tiện tham gia giao thông dẫn đến nạn nhận bị té và chấn thương sọ não dẫn đến cái chết. Việc áp dụng tình tiết định khung “làm chết người” đòi hỏi khi áp dụng phải chứng minh được mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa hành vi cướp giật tài sản và cái chết xảy ra đối với nạn nhân.
Trong vụ việc trên nạn nhân là người có bệnh án tâm thần, bệnh phổi. Quá trình giật điện thoại không dẫn đến làm té ngã nạn nhân, cái chết cũng không xảy ra đồng thời tại thời điểm các đối tượng thực hiện hành vi mà xảy ra sau đó một khoảng thời gian. Vì vậy việc có áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “làm chết người” trong trường hợp này hay không cần phải được làm rõ qua quá trình điều tra.
Theo đó, với tình tiết này, nếu cơ quan điều tra kết luận hành vi cướp giật là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc nạn nhân tử vong (ví dụ cú sốc tâm lý quá lớn khiến nạn nhân mất khả năng làm chủ bản thân), thì tội danh của người thực hiện hành vi có thể xem xét theo điểm c, Khoản 4, Điều 171, người phạm tội sẽ phải đối diện với mức hình phạt tù thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Còn nếu cơ quan điều tra không thể chứng minh được mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa hành vi cướp giật và cái chết của nạn nhân (ví dụ cái chết xảy ra sau một thời gian dài, được xem là hậu quả gián tiếp hoặc do nhiều yếu tố khác), thì người phạm tội chỉ bị truy tố theo khoản 2, Điều 171 mà thôi.
Với vụ án này sẽ được xử lý nghiêm minh hơn rất nhiều so với một vụ cướp giật thông thường. Quyết định cuối cùng về tội danh và hình phạt sẽ phụ thuộc vào việc xác định có hay không mối liên hệ pháp lý giữa hành vi phạm tội và cái chết thương tâm của nạn nhân.
Nhóm yếu thế vốn rất cần sự tương trợ của cộng đồng. Việc bảo vệ người yếu thế là cần thiết. Vì vậy, việc cướp giật nhằm người yếu thế, người sống bằng nghề bán vé số, người già, khuyết tật thì càng đáng lên án gấp bội. Vì thế, một trong các biện pháp hữu hiệu để ngăn ngừa là cần sớm xem xét hành vi phạm tội nhắm vào nhóm yếu thế trong xã hội như một yếu tố, tình tiết tăng nặng đối với tội “Cướp giật tài sản”.
Luật sư Đỗ Thị Thanh Nhàn, Đoàn Luật sư TP Hà Nội