Đà Lạt và lộ trình tiến tới đô thị di sản
'Đô thị di sản' là một khái niệm mới ở Việt Nam. Dù Luật Di sản văn hóa chưa từng đề cập, nhưng nói đến vấn đề này, người ta thường nghĩ đến những đô thị được bảo tồn một cách có hệ thống các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể ghi nhận sự nhắc nhớ sâu sắc về lịch sử. Cũng như Huế - kinh đô của triều đình phong kiến Việt Nam cuối cùng và Hội An - phố thị phát triển trên nền thương cảng cổ, Đà Lạt được đánh giá là đô thị mang phong cách thuần Pháp được kiến tạo trong thời thuộc địa. Trong tương lai, Đà Lạt có được xác lập là đô thị di sản hay không, còn nhiều nội dung cần bàn, nhưng chắc chắn với rất nhiều người đô thị này luôn thấm đẫm những giá trị mang màu sắc hoài niệm, một niềm hoài nhớ...
“Đô thị di sản” là một khái niệm mới ở Việt Nam. Dù Luật Di sản văn hóa chưa từng đề cập, nhưng nói đến vấn đề này, người ta thường nghĩ đến những đô thị được bảo tồn một cách có hệ thống các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể ghi nhận sự nhắc nhớ sâu sắc về lịch sử. Cũng như Huế - kinh đô của triều đình phong kiến Việt Nam cuối cùng và Hội An - phố thị phát triển trên nền thương cảng cổ, Đà Lạt được đánh giá là đô thị mang phong cách thuần Pháp được kiến tạo trong thời thuộc địa. Trong tương lai, Đà Lạt có được xác lập là đô thị di sản hay không, còn nhiều nội dung cần bàn, nhưng chắc chắn với rất nhiều người đô thị này luôn thấm đẫm những giá trị mang màu sắc hoài niệm, một niềm hoài nhớ...
Lịch sử của mỗi đô thị khác nhau ở cách mà nó ra đời. Nhiều thành phố ở Việt Nam sinh thành và phát triển theo lộ trình “từ làng lên phố”. Đà Lạt thì khác, ngay từ đầu đã được kiến tạo bởi ý tưởng về một đô thị xác định rõ công năng với sự hoạch định quy mô, quy hoạch, kiến trúc bài bản. Đô thị này được hình thành dựa trên yếu tố tiên quyết là tài nguyên thiên nhiên, với núi rừng hùng vĩ, bầu khí hậu mát mẻ, một ốc đảo khác biệt giữa vùng nhiệt đới. Từ đó, Đà Lạt được xác định từ đầu và xuyên suốt là một thành phố phục vụ nghỉ mát, nghỉ dưỡng. Người Pháp cũng muốn và đã tạo nên một phố thị mang dáng dấp châu Âu giữa vùng Á Đông nhằm giúp những người da trắng thực dân khuây khỏa phần nào nỗi nhớ “mẫu quốc”. Điều đó đã quyết định hình thái cấu trúc không gian, thể loại và kiến trúc đô thị.
Là tác phẩm của các kiến trúc sư lừng danh, những người mang khát vọng kiến tạo, thành phố này được quy hoạch chi tiết và qua các thời kỳ, những bản quy hoạch được điều chỉnh và tôn trọng. Các viên Toàn quyền Đông Dương như P.Đu-me (Paul Doumer), G.Bi-a (Jean Baea), A.Xa-rô (Albert Sarraut) hay G.Đơ-cu (Jean Decoux) dù là phục vụ cho mục đích cai trị nhưng cũng đã góp sức ban những kế hoạch quan trọng trong việc phát triển Đà Lạt trong thời kỳ đầu; từ đó đã tạo nên diện mạo của một đô thị “có một không hai” ở xứ nhiệt đới Việt Nam...
Như mẫu mực về cách kiến tạo ra một đô thị độc đáo ở vùng Viễn Đông, Đà Lạt được gọi với nhiều mỹ danh như “vương quốc hoa”, “thành phố mộng mơ”, “thành phố trong rừng”... Có lẽ là thông và hoa, là sương lãng đãng trên đồi cao lũng thấp, là dòng suối trong xanh, mặt hồ gợn sóng hay bầu khí hậu nhuốm vẻ u hoài đã tạo nên những cảm xúc và tên gọi ấy. Trên nền tảng thiên nhiên đó, con người đã “nương theo” để kiến tạo một cách hòa hợp và dựng lên linh hồn của thành phố bằng giá trị kiến trúc.
Để xây dựng Đà Lạt, Toàn quyền P.Đu-me (Paul Doumer) đã huy động nhiều nhà quy hoạch, giám sát mọi hoạt động. Ông ta muốn Đà Lạt là một thành phố toàn vẹn, phù hợp với dáng dấp một đô thị vùng cao. Vào năm 1921, kiến trúc sư người Pháp nổi tiếng thế giới E.Ê-bra (Ernést Hébrard) được giao nhiệm vụ thiết lập đồ án quy hoạch Đà Lạt. Thực hiện ý đồ của nhà cầm quyền đương thời là xây dựng Đà Lạt thành thủ phủ của Đông Dương, tư tưởng chủ đạo của kiến trúc sư (KTS) này là tập trung vùng cư dân quanh các hồ. Theo đó, có các khu hành chính, quân sự, bệnh viện, trường học, thao trường, đồn điền, khu nhà ở của người Âu, khu nhà ở của người Việt Nam, khu phát triển cho người Pháp, khu an dưỡng, khu chợ... Sau Hébrard, còn có thêm đồ án của các KTS Lu-ít G.P.Pi-nô (Louis G.P.Pino) (1933), Mông-đe (Mondet) (1940) rồi G.La-dít-ke (J.Lagisquet) (1942). Đặc điểm chung của các đồ án trên là tôn trọng thiên nhiên, cố gắng duy trì vẻ đẹp của cảnh quan. Và như vậy, từ một vùng rừng núi hoang dã, nhiều KTS nổi tiếng thế giới thời đó đã thổi vào một linh hồn bằng hệ thống các công trình đạt đến độ hoàn mỹ, hoàn thiện.
Đến nay, giới chuyên môn nhận định, có một “bảo tàng” kiến trúc Pháp tại Đà Lạt, quả là không nói quá. Từ ngôi nhà tranh đầu tiên, đến 10 ngôi nhà gỗ theo kiểu vùng miền núi nước Pháp, năm 1930 Đà Lạt đã có đến 398 ngôi biệt thự đồ sộ bằng bê-tông cốt thép. Đến năm 1949, toàn thành phố đã có hơn 1.500 công trình, trong đó có hơn 1.000 biệt thự, dinh thự, trường học, nhà ga, thánh đường được xem là mẫu hình tiêu biểu của nền kiến trúc Pháp cuối thế kỷ 19. Điều độc đáo là không có biệt thự nào giống biệt thự nào, mỗi công trình là một tác phẩm kiến trúc hoàn mỹ, hoàn thiện. Qua thăng trầm lịch sử, dù có thêm nhiều công trình mới ra đời nhưng những công trình xây dựng buổi đầu vẫn không thể lẫn vào đâu được. Đặc điểm chung: nhà - biệt thự, dinh thự và các công trình công cộng luôn có vườn hoa, cách xa nhau, có tầm nhìn rất thoáng và hướng đẹp, nhìn ra rừng thông. Các công trình kiến trúc ẩn mình giữa đồi thông và chiều cao của công trình không vượt quá ba tầng bởi không muốn che khuất rừng cây và không gian đô thị...
Sinh thời, KTS Ngô Viết Thụ, người từng đoạt giải Khôi nguyên La Mã đã nói với tôi: “Nhà không thấy trọn, núi không thấy trọn, cảnh luôn ảo huyền. Thiên nhiên Đà Lạt thanh thoát và uyển chuyển, núi nặng mà thấy nhẹ. Thiên nhiên ấy phảng phất như nét vẽ thủy mặc, nét kiêu sa của nghệ thuật Á Đông. Quan điểm của tôi về sự tham gia của con người đối với Đà Lạt là kiến trúc phải đi theo thiên nhiên, không được phá vỡ bố cục của tạo hóa”. Không gian Đà Lạt đã tạo nên và sở hữu một nỗi buồn trong lành. Dáng nét ảo huyền phảng phất ngay chính trên cái nền buồn lãng đãng mà KTS Hoàng Đạo Kính đã không ngần ngại dành cho hai chữ “đặc sản”. Đó là nỗi buồn sang trọng, đầy mỹ cảm được sinh thành từ cuộc hôn phối giữa thiên nhiên và bàn tay kiến tạo của con người…
Thế nhưng, những cảm nhận về phố núi đang có những diễn tiến thay đổi theo thời gian. Rất tiếc, lại là những cảnh báo lo ngại về một Đà Lạt đang phát triển theo một lề lối rất khó kiểm soát. KTS Ngô Viết Nam Sơn khái quát về thực trạng hiện thời: “Quy mô của đô thị, độ mở rộng của nó cả chiều ngang, mật độ, khối tích, chiều cao... trở nên thách thức tế bào đô thị cũ và tạo nên sự thiếu gắn kết về không gian, đường nét, kiến trúc và cả về giao thông, thách thức sự cân bằng”. Quả đúng vậy, trong vòng vài chục năm qua, Đà Lạt phát triển rất nhanh nhưng phần lớn lại mang tính tự phát, trái ngược với sự phát triển nhanh mà thuận theo quy hoạch. Ở góc độ vi mô, các công trình cũ đang bị xây chèn, xen cấy nhiều công trình to và xa lạ, làm tăng mật độ sử dụng đất, giảm cây xanh, nhiều chỗ san ủi biến dạng địa hình. Quỹ kiến trúc đô thị cũ bị đe dọa nghiêm trọng. “Đà Lạt đang sở hữu một quỹ di sản đô thị và kiến trúc tập trung khá đồ sộ và cực kỳ quý giá nhưng nếu để sự xô bồ tràn lên, lấn át và thay thế sẽ là sự sai lầm đáng tiếc”, đó là lời cảnh báo của KTS Đỗ Hữu Phú (Trường đại học Kiến trúc Hà Nội)...
Cũng cần nói thêm, khi nhắc đến khái niệm đô thị di sản Đà Lạt, điều mọi người quan tâm chính vẫn là hệ thống kiến trúc. Nhưng, Đà Lạt không chỉ có kiến trúc, hay nói đúng hơn, những giá trị kiến trúc ấy tồn tại trong một không gian thiên nhiên và nhân văn. Như phân tích của KTS Hoàng Đạo Kính: “Chính tài nguyên thiên nhiên và quỹ kiến trúc đô thị vô song ấy đã thúc đẩy và gạn lọc ra một lối sống, có thể nói, một dạng văn hóa thị thành đặc trưng”. Tuy nhiên, ngay cả hệ giá trị này cũng đang bị bào mòn bởi nhiều lẽ, mà giá trị nhân văn là một khái niệm trừu tượng và cách bảo tồn hệ giá trị này phải là kiểu bảo tồn đặc biệt. Môi trường tự nhiên với hệ thống cảnh quan thiên tạo và quỹ công trình kiến trúc là những gì trực quan hiện hữu, còn mất rõ ràng, còn làm sao giữ được sự tiếp nối, không đứt mạch trong quá trình kế thừa nguồn “gien” văn hóa - con người của một đô thị đặc biệt là cách giữ lấy hồn cốt của di sản.
Ông Đoàn Văn Việt - Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng phát biểu: “Trước mắt, Đà Lạt cần bảo vệ và phát huy ba giá trị cốt lõi là giá trị về khí hậu cảnh quan thiên nhiên, quỹ di sản kiến trúc công trình và giá trị văn hóa - con người Đà Lạt. Sự tổng hòa các yếu tố cốt lõi này là cơ sở để xây dựng Đà Lạt thành đô thị di sản”. Cũng trùng quan điểm này, KTS Lê Tứ - Chủ tịch Hội KTS tỉnh Lâm Đồng bày tỏ: “Di sản là hồn cốt, không chỉ là vật thể”. Ông Lê Tứ lý giải, từ khi thành lập đến năm 1954, Đà Lạt được hiểu và nhìn nhận là một thành phố thuần Pháp, từ quy hoạch tổng thể, quản lý xây dựng, kiến trúc và quản lý xã hội theo mô hình Pháp không giống bất kỳ thành phố nào ở Việt Nam. KTS này cũng đưa ra sáng kiến là nên thành lập sớm Ban quản lý di sản đô thị Đà Lạt, chịu trách nhiệm về việc quản lý nhà nước, quản lý tập trung mọi hoạt động phát triển đô thị liên quan đến di sản, là đầu mối cần thỏa thuận về kiến trúc - quy hoạch cho các dự án xây dựng trong khu vực di sản hoặc vùng lõi trung tâm đô thị lịch sử…
Chính quyền địa phương ý thức rõ điều đó và đã có những động thái hướng tới bảo tồn những gì còn lại của hệ thống di sản kiến trúc. Quyết định số 47/2017/QĐ-UBND của UBND tỉnh Lâm Đồng (ngày 8-12-2017) về “Ban hành Quy định bảo tồn, quản lý, sử dụng quỹ biệt thự thuộc sở hữu Nhà nước trên địa bàn thành phố Đà Lạt” là một văn bản có giá trị pháp lý cao nhất khi tại quyết định này đã chia quỹ dinh thự, biệt thự thành các nhóm và ban hành những quy định cụ thể trong việc bảo tồn.
Đà Lạt có thể trở thành đô thị di sản hay không, tùy thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng chúng tôi dẫn ý kiến của ông Lê Quang Trung - Giám đốc Sở Xây dựng Lâm Đồng, như một sự khích lệ cho ý tưởng tốt đẹp này: “Sự hội tụ các giá trị văn hóa, cảnh quan thiên nhiên, di sản kiến trúc là những yếu tố cơ bản để Đà Lạt trở thành một thành phố di sản. Luật Di sản văn hóa hiện thời chỉ xác định đối với di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, chưa có khái niệm về đô thị di sản. Tuy nhiên, trên cơ sở bảo tồn và phát huy giá trị di sản, cần được đánh giá qua các nghiên cứu khoa học làm cơ sở xây dựng các cơ chế, chính sách để bảo tồn và phát huy. Đó cũng là lý do để địa phương có thể đề xuất về hành lang pháp lý mở đường cho việc công nhận Đà Lạt là đô thị di sản trong tương lai…”.
Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.com.vn/di-san/da-lat-va-lo-trinh-tien-toi-do-thi-di-san-615596/