Đà Nẵng, lối đi chung, lối đi riêng
Có thể nói, các mục tiêu đặt ra trong quy hoạch phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030 rất cao so với diễn biến thực trạng phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng hiện nay.
LTS: Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định 1287 QĐ/TTg phê duyệt quy hoạch phát triển Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương Nguyễn Đình Cung phân tích những động lực mới để Đà Nẵng cất cánh.
Đà Nẵng được tách và thành lập thành phố trực thuộc trung ương từ năm 1997. Đến nay, sau gần 20 năm, Đà Nẵng đã phát triển từ nghèo khó trở thành nơi đáng sống với mức thu nhập của người dân thuộc top đầu trong cả nước.
Đà Nẵng đã trở thành điểm đến du lịch ưa thích của du khách trong nước và quốc tế. Thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của Đà Nẵng trong thời gian qua là nổi trội, khác biệt so với hầu hết các địa phương khác.
Bên cạnh các lợi thế về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, tư duy đột phá của người lãnh đạo, sự năng động sáng tạo của hệ thống chính trị với khao khát biến tiềm năng thành hiện thực, tăng tốc phát triển kinh tế địa phương liên tiếp trong nhiều nhiệm kỳ… là yếu tố quyết định đối với thành công của Đà Nẵng trong thời gian qua.
Thật vậy, những cơ chế, chính sách khác biệt phù hợp với thực tiễn và theo cơ chế thị trường về khai thác, huy động và tích tụ vốn từ đất đai đã được áp dụng để đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đô thị. Đồng thời, đẩy mạnh, tăng tốc quá trình đô thị hóa và phát triển mạnh mẽ khu vực dịch vụ, nhất là dịch vụ du lịch là điểm nổi trội thứ nhất trong mô hình phát triển của Đà Nẵng.
Điểm nổi trội thứ hai, quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất, di dời chỗ ở và thay đổi sinh kế của người dân đã không đẩy họ ra bên lề của quá trình phát triển. Người dân là chủ thể, trực tiếp tham gia và hưởng lợi từ quá trình chuyển đổi, đô thị hóa, dịch vụ hóa và từng bước hiện đại hóa kinh tế Đà Nẵng.
Có thể nói, đây là điểm khác biệt, là thành công nổi trội cơ bản của mô hình phát triển Đà Nẵng so với hầu hết các địa phương khác, rất đáng được học hỏi, rút bài học.
Tuy vậy, mô hình phát triển nói trên của Đà Nẵng do nhiều nguyên nhân khác nhau đã dần giảm, thu hẹp dư địa phát triển. Cần sớm bổ sung thêm năng lượng, thay đổi động lực tiếp tục theo tinh thần khác biệt vượt trội như trước đây để đưa Đà Nẵng trở lại đường ray phát triển nhanh, bền vững nhằm hiện thực hóa mục tiêu phát triển theo quy hoạch đã định.
Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng xác định mục tiêu đến năm 2030 có tốc độ tăng trưởng kinh tế 9,5-10%/năm. Trong đó, nông lâm nghiêp thủy sản tăng 2,5-3%; công nghiệp xây dựng tăng 10-10,5%, (công nghiệp tăng 11,5-12%), dịch vụ tăng 9,5-10%; thu ngân sách trên địa bàn tăng 9-10%/năm; đầu tư xã hội tăng 11-12% năm…
Có thể nói, các mục tiêu nói trên rất cao so với diễn biến thực trạng phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng hiện nay. Cụ thể là:
Thời kỳ 2015-2019, tăng trưởng GRDP trung bình cũng chỉ đạt hơn 7,7%. Tăng trưởng bình quân giai đoạn 2019-2023 chỉ khoảng 3,2%, không bằng một nửa so với trước đó. Trong 3 năm qua, tăng trưởng GRDP bình quân chỉ đạt 5,65%.
Để đạt mục tiêu quy hoạch cho giai đoạn đến năm 2030, tăng trưởng GRDP bình quân năm trong 2024-2030 phải đạt hơn 11% mỗi năm, tức là phải cao gấp 2 lần so với thực trạng hiện nay.
Xét về phía cung, dịch vụ là nhân tố chính tạo nên tăng trưởng thần kỳ của Đà Nẵng trong thời gian qua. Đóng góp của công nghiệp và xây dựng, nhất là công nghiệp chế tác, chế tạo trong GRDP nhìn chung khá thấp, thấp hơn nhiều so với đa số các địa phương khác và mức bình quân chung của cả nước.
Tăng trưởng VA của khu vực dịch vụ, trụ cột chính của kinh tế Đà Nẵng, giai đoạn 2015-2022 chỉ là 7,2%, giai đoạn 2015-2019 là 8,65%. Nếu tiếp tục với tốc độ như thế là không còn đủ để duy trì tăng trưởng cao và bền vững, đạt được mục tiêu phát triển như đã xác định trong quy hoạch.
Xét về các ngành dịch vụ trong hệ sinh thái du lịch gồm bán buôn, bán lẻ, vận tải và kho bãi; lưu trú và ăn uống, vui chơi giải trí…. đóng góp hơn 32% GRDP năm 2022. Trong đó, dịch vụ nghệ thuật vui chơi giải trí còn rất thấp, chưa đáng kể so với các loại dịch vụ khác.
Như vậy, du lịch ở Đà Nẵng mới chủ yếu tập trung lưu trú, ăn uống và một phần nhất định là mua sắm. Các sản phẩm dịch vụ khác, nhất là vui chơi giải trí là chưa đáng kể.
Ngoài ra, các ngành dịch vụ chất lượng cao, đặc trưng cho trình độ phát triển cao của nền kinh tế như giáo dục, đào tào, tài chính và ngân hàng, hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ, chăm sóc y tế,… chỉ có vai trò rất khiêm tốn trong cơ cấu kinh tế Đà Nẵng.
Ngoại trừ lưu trú ăn uống là dịch vụ chủ đạo của du lịch Đà Nẵng, tăng trưởng của các ngành dịch vụ còn lại, đặc biệt là giáo dục đào tạo, vui chơi giải trí, tài chính ngân hàng, nghiên cứu khoa học công nghệ… khá thấp so với tiềm năng của Đà Nẵng.
Với cơ cấu dịch vụ và tốc độ tăng trưởng như trình bày trên đây, khó có thể tiếp tục thực hiện sứ mệnh là đầu tàu đưa nền kinh tế Đà Nẵng đến mục tiêu quy hoạch như đã nói trên.
Về xây dựng và công nghiệp, phần đóng góp của lĩnh vực này, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo đang giảm dần; tốc độ tăng trưởng VA thấp và không ổn định, đóng góp khá thấp vào tăng trưởng GRDP.
Các sản phẩm công nghiệp chủ yếu của Đà Nẵng bao gồm: (i) sản phẩm thủy sản đông lạnh, (ii) sản phẩm bia các loại, (iii) sản phẩm vải dệt thành phẩm, (iv) sản phẩm quần áo may sẵn, (v) lốp hơi mới bằng cao su dùng cho xe tải, xe buýt hoặc máy bay;(vi) sản phẩm xi mămg, (vii) sản phẩm gạch các loại, (viii) sản phẩm động cơ điện một chiều có công suất nhỏ hơn hoặc bằng 37W, (ix) sản phẩm thiết bị câu và bắt cá.
Có thể nói, quy mô công nghiệp còn nhỏ với các sản phẩm chủ yếu nói trên, nếu tiếp tục có đầu tư phát triền, vẫn không thể nâng cấp và tạo ra thay đổi cơ bản về chất kinh tế Đà Nẵng, và góp phần vào đạt các mục tiêu phát triển của địa phương trong các thập kỷ tiếp theo.
Bức tranh trên đây cho thấy, tăng trưởng kinh tế Đà Nẵng đang giảm dần. Những khác biệt của phát triển kinh tế Đà Nẵng không còn, các động lực tăng trưởng đang suy yếu dần, không có khả năng bứt phá để đưa Đà Nẵng trở lại quỹ đạo tăng trưởng cao và bền vững.
Thực tế cho thấy đầu tư xã hội của Đà Nẵng đang suy giảm nhanh chóng, liên tục và toàn diện trong thời gian qua.
Số vốn đầu tư xã hội giảm liên tục từ 39,262 tỷ đồng năm 2019 xuống còn 31.773 tỷ đồng năm 2023. Đầu tư xã hội/GRDP của Đà Nẵng đã giảm nhanh từ 57,71% năm 2010 xuống còn 23,67% năm 2023.
Tổng đầu tư xã hội trên địa bàn Đà Nẵng đang suy giảm mạnh, tăng trưởng (âm) trung bình 3%. Nói cách khác, đầu tư xã hội của Đà Nẵng đang thu hẹp và nhỏ hơn nhiều so với trước đây.
Xét về đầu tư nhà nước, đầu tư của trung ương giảm mạnh, chiếm phần không đáng kể, chỉ khoảng 5% tổng đầu tư nhà nước kể từ năm 2017. Vốn đầu tư nhà nước trên địa bàn Đà Nẵng hầu như không tăng trong suốt 5 năm 2019-2023, chỉ khoảng gần 9.000 tỷ đồng/ năm.
Tương tự, số vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà nước và FDI cũng có xu hướng giảm và thu hẹp lại so với trước trong suốt 5 năm qua.
Xét cơ cấu đầu tư xã hội theo ngành kinh tế, có thể nhận thấy một số điểm đáng lưu ý sau đây:
Thứ nhất, đầu tư cho kinh doanh bất động sản liên tục tăng từ khoảng 10% năm 2015 lên khoảng 17,5% năm 2022. Trong khi đó, đóng góp của ngành này trong GRDP chỉ khoảng 6%.
Thứ hai, đầu tư cho ngành dịch vụ lưu trú ăn uống chiếm trung bình khoảng 13,2% tổng đầu tư xã hội giai đoạn 2015-2022, nhưng ngành này chỉ đóng góp khoảng 4,5-6,5% GRDP.
Thứ ba, đầu tư cho dịch vụ thương mại khá thấp và có xu hướng giảm từ khoảng 6% tổng đầu tư xã hội năm 2015 xuống còn 4,36% năm 2022, trong khi ngành này đóng góp khoảng 13-14,5% GRDP thành phố Đà Nẵng.
Thứ tư, đầu tư vào công nghiệp chế biến, chế tạo và xây dựng có xu hướng giảm tương ứng 12,5% và 10% tổng đầu tư xã hội năm 2015 giảm xuống 9,53% và 5,57% năm 2022. Trong khi đó, đóng góp của hai ngành này trong GRDP là 23,4% năm 2015 giảm xuống còn 20% năm 2022.
Điều đáng nói, đầu tư vào các ngành dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế và dịch vụ chuyên môn khoa học công nghệ là khá thấp và đang có xu hướng giảm trong mấy năm gần đây. Tương tự, đầu tư vào ngành vui chơi, giải trí rất thấp, giảm mạnh trong các năm gần đây, chỉ còn chiếm 0,51% tổng đầu tư xã hội vào năm 2022.
Trong khi đó, hoạt động làm thuê hộ gia đình đóng góp hoàn toàn không đáng kể, chỉ khoảng 0,1% GRDP của Đà Nẵng. Tuy nhiên, đầu tư xã hội cho hoạt động này tương đối cao và đang tăng tiên tục từ 8,3% năm 2015 lên gần 18% tổng đầu tư xã hội năm 2022.
Tóm lại, đầu tư xã hội ở Đà Nẵng giảm về tỷ trọng/GRDP, về số tuyệt đối nói chung và của từng thành phần kinh tế nói riêng. Đặc biệt, đầu tư vốn ngân sách trung ương cho Đà Nẵng đã giảm mạnh so với trước đây. Thêm vào đó, vốn đầu tư xã hội đang bị phân bổ sai lệch và sử dụng kém hiệu quả.
Vốn đầu tư xã hội tập trung nhiều vào các ngành kém hiệu quả, đóng góp không tương xứng trong GRDP. Đầu tư vào các ngành dịch vụ, thương mại, giáo dục, đào tạo, y tế, vui chơi giải trí rất thấp và có xu hướng giảm trong mấy năm gần đây.
Thực tế diễn biến vốn đầu tư xã hội như trên cho thấy nền kinh tế đang cạn dần động lực tăng trưởng.
Kì tới: Những cơ chế đặc thù để Đà Nẵng cất cánh
Lan Anh lược ghi
Nguồn VietnamNet: https://vietnamnet.vn/da-nang-loi-di-chung-loi-di-rieng-2261004.html