Đại biểu Đặng Hồng Sỹ, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Lâm Đồng: Cần cơ chế giám sát để bảo đảm đạo đức trong chuyển đổi số giáo dục
Đại biểu Đặng Hồng Sỹ, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Lâm Đồng nhấn mạnh đến cơ chế giám sát để bảo đảm đạo đức trong chuyển đổi số giáo dục.

Đại biểu Đặng Hồng Sỹ, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Lâm Đồng góp ý thảo luận tại tổ
Tại phiên thảo luận tổ ngày 22/10, tham gia góp ý dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), đại biểu Đặng Hồng Sỹ cho rằng: Dự thảo lần này đã có nhiều điểm mới, thể hiện tinh thần đột phá về tự chủ, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, đại biểu có một số ý kiến góp ý tập trung vào những vấn đề lớn sau đây:
Thứ nhất, về nguyên tắc hoạt động giáo dục đại học (Điều 4)
Dự thảo mới chỉ đề cập đến các nguyên tắc hoạt động trong phạm vi quốc gia mà chưa thể hiện rõ nguyên tắc hội nhập quốc tế – một yêu cầu tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hóa và hợp tác giáo dục xuyên biên giới.
Thực tế hiện nay, nhiều trường đại học Việt Nam đã có chương trình liên kết, hợp tác đào tạo, công nhận tín chỉ và cấp văn bằng với các cơ sở giáo dục nước ngoài. Vì vậy, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo bổ sung nguyên tắc “Hội nhập quốc tế trong giáo dục đại học”, làm cơ sở pháp lý cho việc mở rộng hợp tác, bảo đảm chất lượng đào tạo theo chuẩn khu vực và quốc tế, đồng thời giúp người học được công nhận trình độ trong thị trường lao động toàn cầu.

Tổ 7 gồm các ĐBQH Lâm Đồng, Nghệ An tham dự góp ý, thảo luận về các dự án luật
Thứ hai, về trách nhiệm quản lý Nhà nước (Điều 6)
Khoản 3 của điều này quy định trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ còn chung chung, chưa thể hiện rõ vai trò quản lý chuyên ngành. Trong khi đó, thực tiễn cho thấy nhiều cơ sở giáo dục đại học trực thuộc các Bộ, ngành như Y tế, Văn hóa, Công an, Quốc phòng, Nội vụ… có đặc thù riêng và cần sự phối hợp chặt chẽ với Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Do đó, đại biểu đề nghị quy định rõ hơn: “Các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao có trách nhiệm phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo trong quản lý nhà nước về giáo dục đại học; thực hiện quản lý đào tạo chuyên sâu, đặc thù theo lĩnh vực và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về kết quả thực hiện.”
Quy định này vừa tăng tính chủ động của các Bộ chuyên ngành, vừa bảo đảm thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục đại học.
Thứ ba, về chiến lược phát triển giáo dục đại học (Điều 7)
Chiến lược phát triển giáo dục đại học là công cụ định hướng rất quan trọng, song dự thảo hiện nay còn thiếu các nội dung mang tính đột phá. Do đó đại biểu đề nghị: Bổ sung các lĩnh vực ưu tiên như công nghệ lõi, trí tuệ nhân tạo, năng lượng tái tạo, kinh tế xanh, chuyển đổi số - những ngành liên ngành mang tính chiến lược, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế tri thức. Bổ sung cơ chế hợp tác công - tư và tài chính bền vững để huy động nguồn lực xã hội cho giáo dục đại học, đặc biệt là đầu tư cơ sở vật chất, nghiên cứu và đổi mới sáng tạo. Quy định cơ chế cập nhật định kỳ chiến lược ít nhất 5 năm một lần nhằm bảo đảm chiến lược luôn phù hợp với bối cảnh thay đổi nhanh của kinh tế và công nghệ. Lồng ghép nội dung hội nhập quốc tế, tham chiếu Khung trình độ ASEAN và tiêu chuẩn quốc tế để nâng cao vị thế giáo dục đại học Việt Nam.
Theo đại biểu, những nội dung này sẽ giúp chiến lược không chỉ có tầm nhìn dài hạn mà còn đủ linh hoạt, thích ứng với xu hướng toàn cầu.
Thứ tư, về chuẩn cơ sở giáo dục đại học (Điều 9)
Qua nghiên cứu đại biểu thấy rằng Quy định hiện tại còn khái quát, chưa chỉ rõ các chỉ tiêu cụ thể để đánh giá chất lượng. Do đó, đại biểu kiến nghị bổ sung quy định (hoặc giao Chính phủ quy định) cụ thể hơn về những vấn quan trọng như: Quy định rõ các tiêu chí cốt lõi như: trình độ đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, năng lực nghiên cứu, tỷ lệ việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp, hiệu quả hợp tác quốc tế; Quy định định kỳ rà soát ít nhất 5 năm/lần để cập nhật, tiệm cận chuẩn khu vực và quốc tế; Bổ sung tiêu chí về năng lực số, bao gồm hạ tầng công nghệ, nền tảng giáo dục số, năng lực ứng dụng trí tuệ nhân tạo của giảng viên và người học; Quy định rõ lộ trình cải thiện và chế tài đình chỉ, thu hồi phép hoạt động đối với cơ sở không đạt chuẩn, nhằm bảo đảm tính nghiêm minh và động lực nâng cao chất lượng.
Theo đại biểu, đây là những yếu tố then chốt giúp hệ thống giáo dục đại học Việt Nam nâng tầm, hội nhập thực chất chứ không chỉ hình thức.
Thứ năm, về ứng dụng công nghệ trong giáo dục đại học (Điều 10)
Đại biểu rất đồng tình với việc bổ sung nội dung chuyển đổi số vào luật, tuy nhiên, đề nghị làm rõ hơn khái niệm “nguyên tắc đạo đức công nghệ” – bao gồm bảo vệ dữ liệu cá nhân, tránh lạm dụng trí tuệ nhân tạo trong đánh giá người học và bảo đảm công bằng trong tiếp cận nền tảng số. Cần có cơ chế giám sát và xử lý vi phạm rõ ràng để quy định này có thể đi vào thực tiễn.
Thứ sáu, về Hội đồng khoa học và đào tạo (Điều 18)
Khoản 3 quy định chi tiết về thành phần Hội đồng, theo đại biểu là chưa cần thiết. Luật chỉ nên quy định nguyên tắc chung, giao cho cơ sở giáo dục tự chủ quyết định cơ cấu phù hợp. Việc cụ thể hóa thành phần nên để trong quy chế tổ chức và hoạt động của trường, nhằm tránh can thiệp sâu vào quyền tự chủ, linh hoạt của các cơ sở đại học.
Đồng thời, cần quy định rõ vai trò phản biện độc lập và tư vấn chính sách học thuật của Hội đồng khoa học và đào tạo, bảo đảm khách quan trong quản trị đại học.
Thứ bảy, về cấp phép hoạt động giáo dục đại học (Điều 21)
Đại biểu đồng tình với quy định cấp phép nhằm kiểm soát chất lượng, nhưng đề nghị: Làm rõ tiêu chí cấp phép đối với hoạt động đào tạo trên không gian số, bao gồm yêu cầu hạ tầng công nghệ, an toàn dữ liệu, và chuẩn kiểm định chất lượng trực tuyến; Xác định rõ thế nào là “vi phạm nghiêm trọng”, để bảo đảm áp dụng thống nhất và minh bạch; Bổ sung quy định về lộ trình khắc phục cho cơ sở vi phạm trước khi bị đình chỉ hoặc thu hồi phép, nhằm bảo vệ quyền lợi người học và tính ổn định của hệ thống.
Thứ tám, về chính sách phát triển đội ngũ giảng viên và người học (Chương V)
Đại biểu đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục rà soát, thể chế hóa đầy đủ tinh thần của Nghị quyết số 71-NQ/TW về phát triển nhân lực trình độ cao và Nghị quyết số 72-NQ/TW về đào tạo lĩnh vực sức khỏe chất lượng cao. Cần có chính sách đặc thù để thu hút, giữ chân giảng viên giỏi, nhà khoa học đầu ngành, cũng như cơ chế học bổng, tín dụng ưu đãi và hỗ trợ người học ở vùng khó khăn, dân tộc thiểu số – góp phần phát triển nguồn nhân lực công bằng và bền vững.
Đại biểu bày tỏ quan điểm đánh giá Dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) đã tiếp cận đúng tinh thần đổi mới, nhưng cần tiếp tục hoàn thiện để bảo đảm tính thống nhất, khả thi và đột phá. Đặc biệt, phải coi giáo dục đại học là trụ cột của phát triển quốc gia, gắn chặt với khoa học – công nghệ – đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế, đồng thời có cơ chế pháp lý vững chắc cho tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở đại học.
Liên quan đến Luật Viên chức (sửa đổi), đại biểu đề nghị cần phải quy định cụ thể hơn, nếu không bố trí cho viên chức nghỉ bù thì phải trả tiền, quy định này lâu nay có rồi nhưng không thực hiện nên thiệt thòi cho viên chức, nhất là trong ngành y.