Đại biểu đề xuất giải quyết thủ tục cho doanh nghiệp ngay tại khu công nghiệp
Để phục vụ nhà đầu tư, đại biểu TP.HCM đề xuất cung cấp dịch vụ công 'một cửa tại chỗ' tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, thông qua ủy quyền cho Ban Quản lý giải quyết toàn bộ các thủ tục hành chính.
Chiều 14/10, các đại biểu tham dự Đại hội Đảng bộ TP.HCM nhiệm kỳ 2025 - 2030 bước vào phiên thảo luận tổ, đóng góp ý kiến vào dự thảo các Văn kiện Đại hội XIV của Đảng và dự thảo các Văn kiện Đại hội Đảng bộ Thành phố.
Tại Tổ thảo luận số 3, đại biểu Bùi Tá Hoàng Vũ, Giám đốc Sở Công thương TP.HCM khẳng định, trong khát vọng phát triển, công nghiệp - công nghệ cao được xác định là trụ cột then chốt, là động lực chiến lược để TP.HCM mới tiếp tục khẳng định vai trò đầu tàu cả nước, vươn tầm khu vực và thế giới.

Đại biểu Bùi Tá Hoàng Vũ, Giám đốc Sở Công thương TP.HCM phát biểu tại Tổ thảo luận số 3.
TP.HCM mới hiện có trên 43.000 doanh nghiệp công nghiệp, chiếm hơn 28% cả nước, đóng góp hơn 25% giá trị sản xuất công nghiệp quốc gia. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong cơ cấu kinh tế đã tăng từ 21,7% lên gần 40% sau sáp nhập.
Trên địa bàn có hơn 90 khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và cụm công nghiệp với tổng diện tích khoảng 28.500 ha, chiếm gần 32% quỹ đất công nghiệp cả nước.
“Đây là không gian công nghiệp liên hoàn, tạo điều kiện thuận lợi để triển khai các khu công nghiệp thế hệ mới - sinh thái, thông minh, carbon thấp”, ông Vũ nói.
Trong bức tranh chung của ngành công nghiệp TP.HCM mới, khu vực Bình Dương tiếp tục khẳng định vai trò trung tâm sản xuất. Với 29 khu công nghiệp đang hoạt động trên 12.700 ha, dự kiến mở rộng lên 21.000 ha vào năm 2030, đã trở thành điểm đến của hơn 11.000 doanh nghiệp công nghiệp, trong đó có 4.000 doanh nghiệp FDI đến từ 65 quốc gia, tổng vốn trên 42 tỷ USD.
Khu vực Bà Rịa - Vũng Tàu sở hữu cụm cảng nước sâu Cái Mép - Thị Vải, thuộc nhóm cảng lớn nhất thế giới, là cửa ngõ xuất nhập khẩu quan trọng của cả nước. Đây chính là lợi thế chiến lược để phát triển chuỗi cung ứng công nghiệp công nghệ cao, bởi khả năng trung chuyển trực tiếp hàng hóa đến các thị trường toàn cầu mà không cần qua cảng trung gian.
Khu vực TP.HCM tiếp tục phát huy là trung tâm về tài chính, thương mại, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và giáo dục - đào tạo. Đây cũng là nơi hội tụ của các chương trình hợp tác quốc tế, các trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, vườn ươm khởi nghiệp.
Dù tiềm năng rất lớn, TP.HCM sau sáp nhập vẫn đối mặt với nhiều thách thức trong phát triển công nghiệp công nghệ cao.
Chẳng hạn như hạ tầng liên kết chưa đồng bộ, các tuyến vành đai, cao tốc, trung tâm logistics chậm triển khai khiến kết nối cảng - nhà máy - thị trường bị gián đoạn, chi phí vận chuyển cao.
Chưa kể, áp lực cạnh tranh quốc tế, chi phí sản xuất tại Việt Nam đang tăng, trong khi năng suất lao động và tỷ lệ nội địa hóa chưa đủ để cạnh tranh bền vững với Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc, bên cạnh đó là rủi ro thuế quan với Mỹ. Nguy cơ lệ thuộc công nghệ nhập khẩu, thiếu chủ động về nền tảng lõi. Tự động hóa có thể ảnh hưởng tới 70% lao động ngành dệt may - da giày.
Theo Giám đốc Sở Công thương, với mục tiêu đến năm 2030, TP.HCM mới sẽ đưa khu vực Bình Dương trở thành trung tâm công nghiệp công nghệ cao của cả vùng, hình thành ít nhất 5 khu công nghiệp thế hệ mới sinh thái, carbon thấp, thông minh.
Đến năm 2045, Thành phố sẽ trở thành trung tâm công nghiệp công nghệ cao hàng đầu Đông Nam Á, trong đó công nghiệp công nghệ cao chiếm trên 60% giá trị sản xuất công nghiệp, năng suất nhân tố tổng hợp đóng góp hơn 50% vào tăng trưởng kinh tế.
Để sớm hiện thực mục tiêu đó, cần tái cấu trúc không gian công nghiệp. TP.HCM mới phải hình thành các hành lang công nghiệp - đổi mới sáng tạo nối liền trung tâm TP.HCM - Bình Dương - Bà Rịa Vũng Tàu.
Các trục động lực như Quốc lộ 13, cao tốc TP.HCM - Thủ Dầu Một - Chơn Thành, tuyến đường sắt Lộc Ninh, Metro Suối Tiên - Bàu Bàng sẽ là xương sống của chuỗi liên kết này. Chuyển đổi các khu công nghiệp truyền thống sang mô hình sinh thái, thông minh, gắn với sản xuất sạch, tuần hoàn và công nghệ 4.0.
Cần kết nối hiệu quả cảng Cái Mép - Thị Vải, sân bay Long Thành với các khu công nghiệp tại khu vực Bình Dương và trung tâm TP.HCM. Xây dựng các trung tâm logistics quốc tế hiện đại, tích hợp cảng cạn ICD, kho thông minh, dịch vụ logistics số, giúp giảm 20 - 30% chi phí logistics, đồng thời tăng sức cạnh tranh quốc tế cho sản phẩm công nghệ cao.
TP.HCM mới cần tận dụng các cơ chế đặc thù, đẩy mạnh cải cách thủ tục, áp dụng cơ chế “luồng xanh” cho các dự án chiến lược. Ưu đãi thuế, đất đai, tín dụng cần được dành cho doanh nghiệp công nghệ cao, công nghiệp xanh.
Song song, phát triển Trung tâm tài chính quốc tế tại TP.HCM để huy động nguồn vốn lớn từ các định chế toàn cầu, hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo và doanh nghiệp công nghệ. Khuyến khích mô hình PPP trong đầu tư hạ tầng, trung tâm dữ liệu, năng lượng tái tạo. Tạo điều kiện để doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, thông qua liên kết, M&A và hợp tác quốc tế.
Để thực hiện chiến lược trên, Thành phố cần kiến nghị Trung ương ưu tiên vốn ODA và vốn trái phiếu Chính phủ cho các dự án hạ tầng giao thông chiến lược: cao tốc, đường sắt, kết nối cảng, sân bay,… tại TP.HCM.
Nới lỏng các chỉ tiêu quy hoạch năng lượng tái tạo cho TP.HCM. Trong đó, ưu tiên bố trí vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kết nối TP.HCM với các trung tâm năng lượng tái tạo quốc gia như Ninh Thuận; phát triển các dự án năng lượng tái tạo quốc gia nhằm đảm bảo nguồn cung năng lượng cho TP.HCM như năng lượng gió tại khu vực Bà Rịa - Vũng Tàu, Cần Giờ.
Cùng với đó là cho phép TP.HCM thực hiện một số cơ chế đặc thù. Chẳng hạn như cung cấp dịch vụ công “một cửa tại chỗ” tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao thông qua việc ủy quyền cho Ban Quản lý giải quyết toàn bộ các thủ tục hành chính (bao gồm của Trung ương và địa phương) nhằm phục vụ nhà đầu tư trên địa bàn.
Đồng thời, quy định các mức ưu đãi đầu tư cao hơn so với mặt bằng chung của cả nước để đảm bảo cạnh tranh với quốc tế trong phạm vi các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao áp dụng đối với các ngành công nghiệp chiến lược.
Cùng với đó là có quy định mức thuế nhập khẩu nguyên vật liệu, linh kiện phù hợp để thúc đẩy phát triển doanh nghiệp trong nước, chuỗi cung ứng nội địa đối với các ngành công nghiệp chiến lược.