Đại biểu Quốc hội băn khoăn về nghịch lý miễn học phí nhưng tổng kinh phí giáo dục của mỗi gia đình lại tăng

Đại biểu Quốc hội bày tỏ lo ngại về việc miễn học phí nhưng tổng chi phí giáo dục lại tăng, do các khoản xã hội hóa và tài trợ.

Đại biểu Chu Thị Hồng Thái chỉ ra nghịch lý miễn học phí nhưng tổng chi phí giáo dục tăng lên thông qua các khoản xã hội hóa. (Nguồn: Quốc hội)

Đại biểu Chu Thị Hồng Thái chỉ ra nghịch lý miễn học phí nhưng tổng chi phí giáo dục tăng lên thông qua các khoản xã hội hóa. (Nguồn: Quốc hội)

Xã hội hóa giáo dục cần phù hợp với từng vùng

Đây là vấn đề được đại biểu Quốc hội đặt ra tại phiên thảo luận về Chủ trương đầu tư Chương trình Mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 – 2035 vừa diễn ra chiều 2/12.

Bày tỏ quan điểm của mình, đại biểu Chu Thị Hồng Thái (đoàn Lạng Sơn) cho rằng, dự thảo và báo cáo tiếp thu, giải trình nêu tỷ lệ xã hội hóa chỉ chiếm 10% tổng mức đầu tư ở các dự án về giáo dục mầm non, phổ thông và giáo dục nghề nghiệp, chủ yếu để bổ sung thiết bị, không gian học tập, sân chơi, hoạt động trải nghiệm... Nhưng phần giải trình chưa đánh giá đầy đủ rủi ro tại các địa bàn khó khăn.

Bà Hồng Thái nêu thực tế ở nhiều xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, gần như không có doanh nghiệp đủ tiềm lực tài chính, người dân thu nhập thấp nên khả năng huy động xã hội hóa rất hạn chế.

Trong bối cảnh đó nếu vẫn ấn định một tỷ lệ xã hội hóa như 10% mà không đạt được từ doanh nghiệp thì nguy cơ hiện hữu là các cơ sở giáo dục và chính quyền cơ sở sẽ chuyển hướng sang vận động, kêu gọi đóng góp tự nguyện từ phụ huynh học sinh để hoàn thành chỉ tiêu về cơ sở vật chất, thiết bị.

Nữ đại biểu nêu quan điểm, cách làm này dẫn đến một nghịch lý là trên danh nghĩa Nhà nước thực hiện chủ trương miễn học phí hoặc không tăng học phí nhưng trên thực tế, tổng chi phí giáo dục mà hộ gia đình phải gánh có thể tăng lên thông qua các khoản thu ngoài học phí như tiền xã hội hóa, tiền tài trợ, tiền trang thiết bị, trải nghiệm.

"Nếu không được nhận diện và kiểm soát tốt, cơ chế xã hội hóa như thiết kế hiện đại có thể có nguy cơ làm giảm hiệu lực của chính sách miễn, giảm học phí, tạo thêm áp lực tài chính lên các gia đình nghèo, đặc biệt là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và đi ngược lại với mục tiêu công bằng trong tiếp cận giáo dục mà chương trình đặt ra", đại biểu Hồng Thái thẳng thắn.

Nhấn mạnh quan điểm, xã hội hóa là cần thiết nhưng phải phù hợp với điều kiện từng vùng, đại biểu đề nghị không áp dụng đúng tỉ lệ 10% và hạn chế việc huy động từ phụ huynh và chỉ xã hội hóa các hạng mục bổ trợ, các hạng mục thiết yếu phải do ngân sách đảm bảo để không tăng chi phí giáo dục cho người dân, nhất là khi chúng ta đang thực hiện chủ trương miễn học phí cho học sinh phổ thông.

Đại biểu Trần Khánh Thu. (Nguồn: Quốc hội)

Đại biểu Trần Khánh Thu. (Nguồn: Quốc hội)

Cần chính sách thu hút giáo viên Tiếng Anh chất lượng cao

Đại biểu Trần Khánh Thu (đoàn Hưng Yên) nêu chương trình đã đề ra mục tiêu đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó năm 2030 phấn đấu 30% cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông có thiết bị để triển khai thực hiện dạy và học bằng tiếng Anh.

Đến năm 2035, chương trình phấn đấu 100% cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông đạt chuẩn về cơ sở vật chất, có thiết bị dạy học để triển khai thực hiện dạy và học bằng tiếng Anh, từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học.

Bà Thu cho rằng, đây là một định hướng lớn, thể hiện quyết tâm hội nhập quốc tế sâu rộng, nhưng để triển khai thành công, cần phải đánh giá thẳng thắn, kỹ lưỡng những điều kiện và thách thức về cơ sở vật chất cũng như nhân lực và môi trường.

Theo báo cáo của Bộ GD&ĐT, chúng ta còn thiếu khoảng 4.000 giáo viên tiếng Anh tại các cấp học phổ thông. Năng lực của đội ngũ cũng là một vấn đề. Mặt khác, hiện nay tuổi trung bình của giáo viên dạy tiếng Anh khá cao (44,2 tuổi). Một số giáo viên tuổi cao ít quan tâm hay còn gặp khó khăn khi tìm tòi những phương pháp giảng dạy hiện đại, phù hợp với từng đối tượng học sinh, nên chất lượng và hiệu quả dạy học của bộ môn chưa đạt được như mong muốn.

Từ đó, đại biểu Khánh Thu đề nghị cần có lộ trình cụ thể để thực hiện các nội dung này, nhất là các tỉnh miền núi, khu vực khó khăn. Trong đó, cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho các tỉnh, đặc biệt các tỉnh miền núi, như hỗ trợ xây dựng phòng ngoại ngữ chuẩn cho 100% trường huyện miền núi trước năm 2030; ưu tiên vùng miền núi, biên giới, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.

Ngoài ra, cần có chính sách đủ mạnh thu hút giáo viên tiếng Anh chất lượng cao như quan tâm tăng phụ cấp thu hút lên 70-100% lương cơ bản cho giáo viên về vùng khó khăn; hỗ trợ nhà ở, cam kết hợp đồng dài hạn. Bên cạnh đó, cần có chính sách đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, kết nối lớp học trực tuyến, sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) hỗ trợ để bù đắp thiếu giáo viên; xây dựng trung tâm tiếng Anh vùng khó khăn theo mô hình liên xã.

Cùng bàn về nội dung này, đại biểu Nguyễn Thị Lan Anh (đoàn Lào Cai) kiến nghị cơ quan soạn thảo bổ sung nội dung Nhà nước ưu tiên nguồn lực hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng giáo viên tiếng Anh cho các tỉnh miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các địa phương đặc biệt khó khăn.

Nữ đại biểu mong muốn khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức quốc tế phối hợp với Bộ GD&ĐT hỗ trợ các trang thiết bị dạy học tiếng Anh cho các trường ở vùng khó khăn, giao Bộ GD&ĐT phối hợp với các bộ liên quan xây dựng kế hoạch đào tạo giáo viên tiếng Anh cho các vùng khó khăn kèm theo nguồn kinh phí hỗ trợ riêng từ ngân sách Trung ương.

Theo bà Lan Anh, chỉ có sự phân cấp hợp lý và cơ chế phù hợp thì mục tiêu đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai, trong trường học mới thực sự khả thi, công bằng và hiệu quả trên mọi vùng miền đất nước.

(tổng hợp)

Phi Yến

Nguồn TG&VN: https://baoquocte.vn/dai-bieu-quoc-hoi-ban-khoan-ve-nghich-ly-mien-hoc-phi-nhung-tong-kinh-phi-giao-duc-cua-moi-gia-dinh-lai-tang-336507.html