Đại biểu Quốc hội hiến kế 5 giải pháp huy động 500 tấn vàng trong dân

Theo ông Thạch Phước Bình, nếu chỉ 10 - 15% lượng vàng trong dân được đưa vào hệ thống tài chính, tương đương 5 đến 7 tỷ USD thì đó sẽ là nguồn vốn quý giá cho nền kinh tế mà không cần tăng vay nợ công.

Tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 10, ngày 30/10, Quốc hội thảo luận tại hội trường về tình hình thực hiện ngân sách Nhà nước năm 2025, dự toán ngân sách Nhà nước, phương án phân bổ ngân sách Trung ương năm 2026; kết quả thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch 5 năm giai đoạn 2021-2025 về đầu tư công trung hạn; tài chính quốc gia và vay, trả nợ công.

Tham gia thảo luận, đại biểu Thạch Phước Bình (đoàn Vĩnh Long) nói rằng, trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn bản lề của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026-2030, nhiệm vụ đặt ra là phải mở rộng không gian tài khóa, huy động tối đa và sử dụng hiệu quả các nguồn lực ngoài ngân sách Nhà nước.

Ông Bình cho rằng, 2 nguồn lực quan trọng nhưng chưa được khai thác tương xứng là quỹ tài chính Nhà nước ngoài ngân sách và nguồn lực vàng, tài sản tích lũy trong dân cư.

"Cả 2 đều là kho vốn lớn của nền kinh tế, một nằm trong khu vực công, một nằm trong dân, nhưng đều đang thiếu một cơ chế quản lý và huy động đồng bộ, minh bạch, hiệu quả", ông Bình nói.

Phần lớn lượng vàng vẫn nằm imtrong két

Về huy động nguồn lực vàng trong dân - chuyển tài sản tĩnh thành động lực sống của nền kinh tế. Ông Bình cho biết, theo Hội đồng Vàng thế giới, người dân Việt Nam hiện nắm giữ khoảng 400 đến 500 tấn vàng, tương đương 35 đến 40 tỷ USD - chiếm gần 8% GDP. Mỗi năm, Việt Nam tiêu thụ trung bình 55 tấn vàng, nằm trong nhóm quốc gia tiêu thụ vàng cao nhất khu vực.

"Tuy nhiên, phần lớn lượng vàng này vẫn nằm trong két - một nguồn lực khổng lồ chưa được chuyển hóa thành vốn cho nền kinh tế", ông Bình nói.

Theo vị đại biểu, năm 2024 và những tháng đầu năm 2025, có thời điểm chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới vượt hơn 14 triệu đồng/lượng, thậm chí đến 20 triệu đồng/lượng.

"Điều này phản ánh sự bất ổn của thị trường và tâm lý đầu cơ, găm giữ. Dù Ngân hàng Nhà nước đã can thiệp đấu thầu vàng miếng, song đây mới là giải pháp ngắn hạn. Nguyên nhân gốc rễ vẫn là thiếu một cơ chế thị trường minh bạch, hiện đại và an toàn cho người dân", ông Bình cho hay.

Đại biểu Thạch Phước Bình (Ảnh: Media Quốc hội).

Đại biểu Thạch Phước Bình (Ảnh: Media Quốc hội).

Từ đó, đại biểu kiến nghị 5 nhóm giải pháp cụ thể để huy động và tài chính hóa vàng trong dân.

Một là ổn định thị trường vàng, thu hẹp chênh lệch giá vàng trong và ngoài nước xuống dưới 5 triệu đồng một lượng trong vòng 6 đến 12 tháng; kiểm soát đầu cơ, tăng cung thông qua nhập khẩu có kiểm soát vàng.

Hai là thành lập Sở Giao dịch vàng quốc gia. Theo ông Bình, đây là bước đột phá thể chế, cho phép người dân gửi vàng vật chất vào kho lưu ký chuẩn hóa, nhận chứng chỉ điện tử để giao dịch, cầm cố hoặc quy đổi. Qua đó, Nhà nước quản lý được dòng vàng thật mà vẫn đảm bảo quyền sở hữu của người dân.

Ba là phát triển các sản phẩm tài chính hóa vàng như phát hành chứng chỉ vàng lưu ký, quỹ đầu tư vàng, trái phiếu vàng được bảo chứng bằng vàng vật chất trong kho. Người dân có thể góp vàng hoặc đầu tư bằng VNĐ, hưởng lợi nhuận theo giá vàng, biến vốn tĩnh thành vốn động.

Bốn là khuyến khích chuyển hóa vàng thành VNĐ thông qua chính sách miễn phí lưu ký, ưu đãi lãi suất hoặc phát hành trái phiếu Chính phủ bằng vàng, dành riêng cho người bán vàng vật chất.

Năm là đảm bảo an toàn hệ thống và minh bạch thông tin, nghiêm cấm ngân hàng huy động hoặc cho vay bằng vàng, công bố bản tin vàng quốc gia định kỳ để người dân được tiếp cận thông tin đầy đủ, tạo niềm tin với thị trường.

Theo đại biểu Thạch Phước Bình, nếu chỉ 10 đến 15% lượng vàng trong dân được đưa vào hệ thống tài chính, tương đương 5 đến 7 tỷ USD thì đó sẽ là nguồn vốn quý giá cho phát triển hạ tầng, chuyển đổi số và đổi mới công nghệ, mà không cần tăng vay nợ công.

Ông nói rằng, không thể huy động nguồn lực của dân nếu chưa quản lý minh bạch, hiệu quả nguồn lực của Nhà nước, cũng như không thể khai thác vốn trong dân nếu chưa tạo được niềm tin rằng đồng vốn ấy sẽ được sử dụng hiệu quả, an toàn và sinh lợi cho đất nước.

Huy động nguồn lực từ quỹ tài chính Nhà nước ngoài ngân sách

Về quản lý và sử dụng các quỹ tài chính Nhà nước ngoài ngân sách, ông Bình dẫn báo cáo số 947 ngày 17/10/2025 của Chính phủ, đến cuối năm 2024, cả nước có 22 quỹ tài chính Nhà nước ngoài ngân sách, tổng dư nguồn đạt 1,59 triệu tỷ đồng, dự kiến tăng lên 1,78 triệu tỷ đồng vào năm 2026. Đây là con số rất lớn, tương đương gần 35% GDP quốc gia, thể hiện quy mô tài chính đáng kể trong hệ thống tài chính công.

Tuy nhiên, theo ông Bình, việc vận hành các quỹ này còn nhiều bất cập do 4 nguyên nhân. Một là thể chế pháp lý thiếu thống nhất, hiện chưa có một đạo luật khung điều chỉnh chung mà mỗi quỹ lại hoạt động theo nghị định, quyết định riêng, dẫn đến chồng chéo, khó giám sát, khó đánh giá hiệu quả một cách tổng thể.

Hai là nhiều quỹ hoạt động chưa hiệu quả, thậm chí thua lỗ. Năm 2025 có 7 quỹ âm kết quả tài chính, năm 2026 vẫn còn 6 quỹ âm, trong đó có Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam âm hơn 4 tỷ đồng và một số quỹ khác.

Đến cuối năm 2024, cả nước có 22 quỹ tài chính Nhà nước ngoài ngân sách, tổng dư nguồn đạt 1,59 triệu tỷ đồng.

Đến cuối năm 2024, cả nước có 22 quỹ tài chính Nhà nước ngoài ngân sách, tổng dư nguồn đạt 1,59 triệu tỷ đồng.

Ba là phụ thuộc lớn vào ngân sách Nhà nước, một số quỹ có tới 80 đến 100% nguồn thu từ ngân sách. Theo ông Bình, điều này không phù hợp với mục tiêu giảm gánh nặng tài khóa.

Bốn là chưa công khai, thiếu kiểm toán độc lập. Nhiều quỹ chưa công bố báo cáo tài chính, chưa chịu kiểm toán toàn diện, việc công khai thông tin trên cổng thông tin điện tử của bộ, ngành còn nặng tính hình thức, chưa đầy đủ. Điều đó dẫn đến rủi ro phân tán nguồn lực và làm suy giảm niềm tin của xã hội vào tính minh bạch của tài chính công.

Nêu kiến nghị, ông Bình nêu 5 nhóm giải pháp trọng tâm. Thứ nhất là ban hành Luật Quản lý các quỹ tài chính Nhà nước ngoài ngân sách, hoặc ít nhất bổ sung một chương riêng trong Luật Ngân sách Nhà nước, nhằm thống nhất thể chế, quy định rõ tiêu chí thành lập, phạm vi hoạt động, cơ chế kiểm soát, báo cáo và giải thể, kết thúc hoạt động quỹ.

Hai là tăng cường công khai, minh bạch; kiểm toán bắt buộc hằng năm đối với các quỹ có trên 30% vốn ngân sách phải chịu kiểm toán Nhà nước toàn diện.

Ba là sắp xếp lại hệ thống quỹ theo hướng tinh gọn, nghiên cứu hợp nhất các quỹ trùng lặp như Quỹ Đổi mới công nghệ và Quỹ Phát triển khoa học - công nghệ; nghiên cứu kết thúc hoặc giải thể các quỹ hoạt động yếu, thiếu nguồn thu ổn định.

Bốn là ứng dụng công nghệ số trong giám sát tài chính, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về các quỹ tài chính Nhà nước ngoài ngân sách, kết nối với hệ thống Kho bạc Nhà nước và Kiểm toán Nhà nước để giám sát theo thời gian thực.

Năm là tăng cường trách nhiệm giải trình trước Quốc hội và cử tri, bởi mỗi đồng quỹ, xét đến cùng, cũng là nguồn lực xã hội ủy thác cho Nhà nước quản lý.

"Nếu làm được, chúng ta không chỉ tiết kiệm hàng chục nghìn tỷ đồng chi thường xuyên mà còn giải phóng nguồn vốn công đang bị đóng băng, góp phần mở rộng dư địa tài khóa cho đầu tư phát triển", đại biểu Thạch Phước Bình phát biểu.

Qua phát biểu, ông Bình kiến nghị Quốc hội giao Chính phủ xây dựng Đề án tổng thể về huy động và quản lý nguồn lực từ quỹ tài chính Nhà nước ngoài ngân sách, trong đó tích hợp 2 trụ cột là thể chế hóa các quỹ tài chính Nhà nước ngoài ngân sách minh bạch, hiệu quả và thiết lập cơ chế huy động nguồn lực tài chính trong dân cư an toàn, hiện đại và hội nhập.

"Đây không chỉ là vấn đề kỹ thuật tài chính mà là bước cải cách thể chế mang tính chiến lược, giúp mở rộng không gian tài khóa, tăng tính tự cường của nền kinh tế và củng cố niềm tin xã hội - nền tảng quan trọng nhất cho phát triển bền vững của đất nước", đại biểu Thạch Phước Bình phát biểu.

Nguyễn Thu Huyền

Nguồn Người Đưa Tin: https://nguoiduatin.vn/dai-bieu-quoc-hoi-hien-ke-5-giai-phap-huy-dong-500-tan-vang-trong-dan-204251030150044778.htm