Đại biểu Quốc hội tham gia thảo luận các vấn đề quan trọng

Tiếp tục chương trình kì họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV, ngày 12/11/2019, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội và Báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1. Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh HOÀNG ĐỨC THẮNG tham gia phát biểu thảo luận về dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội; Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh HÀ SỸ ĐỒNG tham gia phát biểu góp ý một số vấn đề về đánh giá phương án huy động vốn của ACV liên quan đến dự án. Sau đây là các ý kiến tham gia phát biểu của các đại biểu.

Xây dựng Luật Tổ chức Quốc hội thật mẫu mực, thực sự thể hiện tầm cao về trí tuệ

 Đại biểu Hoàng Đức Thắng phát biểu tại hội trường - Ảnh: PHN

Đại biểu Hoàng Đức Thắng phát biểu tại hội trường - Ảnh: PHN

Kính thưa Quốc hội!

Trong thời gian hạn hẹp, tôi xin phát biểu tham gia một số nội dung đối với dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội như sau:

1. Về quy định quốc tịch đối với đại biểu Quốc hội (ĐBQH), bổ sung Điều 22: “ĐBQH có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam”; bổ sung như vậy là đúng nhưng chưa chặt chẽ bởi vì: Trong trường hợp ngoài quốc tịch Việt Nam ra, ĐBQH còn có thể có quốc tịch khác nữa thì về diễn đạt như vậy cũng không sai. Ví như: Tôi có một cái này; không thể và không nhất định là tôi không có cái khác. Vì vậy, để đảm bảo chặt chẽ của câu từ, tôi đề nghị bổ sung thêm từ “chỉ” và diễn đạt lại là: ĐBQH chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam.

2. Về đại biểu chuyên trách, Đoàn ĐBQH: Theo quy định của luật hiện hành, Trưởng đoàn hoặc Phó đoàn là ĐBQH hoạt động chuyên trách và hiện nay phần lớn các địa phương bố trí Phó đoàn hoạt động chuyên trách. Vận hành theo quy định này là phù hợp, đã và đang phát huy hiệu quả. Như thế thì chẳng có lí do gì mà thay đổi, bổ sung. Vì lẽ đó, tôi đề nghị giữ nguyên như quy định luật hiện hành là Trưởng hoặc Phó Đoàn ĐBQH hoạt động chuyên trách.

- Về cơ quan quản lí ĐBQH hoạt động chuyên trách ở địa phương: Theo dự thảo là cơ quan có thẩm quyền quản lí cán bộ ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Quy định như vậy là đúng nhưng chưa đủ bởi lẽ: Đại biểu hoạt động chuyên trách ở địa phương do Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) phê chuẩn hoạt động khá độc lập, phần lớn thời gian hoạt động cho Quốc hội mà nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch, hiệu quả hoạt động của đại biểu thì UBTVQH, Ban Công tác đại biểu, các Ủy ban, Hội đồng Dân tộc mà đại biểu đó tham gia mới có điều kiện, cơ sở đánh giá, nhận xét; nếu quy định như vậy thì không thấy được trách nhiệm của UBTVQH trong quản lí ĐBQH của mình. Vì vậy, tôi đề nghị cần thiết kế cơ chế hỗn hợp về trách nhiệm giữa cơ quan quản lí cán bộ địa phương và cơ quan quản lí ĐBQH của UBTVQH trong quản lí ĐBQH chuyên trách và chỉ quy định khung, có tính nguyên tắc, còn chi tiết sẽ có hướng dẫn phù hợp theo mỗi giai đoạn cụ thể giữa UBTVQH và Ban Tổ chức Trung ương.

- Về bảo đảm kinh phí và các điều kiện khác cho Đoàn ĐBQH tại địa phương. Đoàn ĐBQH là tổ chức của Quốc hội tại địa phương, hoạt động độc lập theo chức năng, nhiệm vụ do Quốc hội giao, có một trong những chức năng là giám sát việc thực thi pháp luật ở địa phương. Thời gian qua, Đoàn ĐBQH và ĐBQH hoạt động trên cơ sở bảo đảm của UBTVQH thông qua VPQH là phù hợp; sự độc lập về điều kiện đảm bảo ấy bảo đảm cho Đoàn ĐBQH, ĐBQH không có sự vướng bận nào, góp phần tạo nên vị thế của Quốc hội ở địa phương. Điều đó cũng đảm bảo nguyên tắc thống nhất: ĐBQH do Quốc hội bảo đảm; ĐB HĐND cấp nào do cấp đó bảo đảm. Vì vậy, không có lí do gì lại giao trách nhiệm này cho địa phương trong khi đó quy định Luật Ngân sách là: Nhiệm vụ chi thuộc ngân sách cấp nào do ngân sách cấp đó bảo đảm. Không dùng ngân sách cấp này để chi cho nhiệm vụ cấp khác.

Mặt khác, theo dự thảo, các khoản phụ cấp, chế độ khác của ĐBQH lại do ngân sách Trung ương bảo đảm lại nảy sinh vấn đề mới là một ĐBQH khi hoạt động lại do 2 cấp ngân sách bảo đảm, chẳng những không thu gọn đầu mối, đơn giản trong bảo đảm phục vụ và kiểm soát mà lại tạo ra sự rắc rối mới; chưa nói đến điều kiện mỗi địa phương khác nhau dẫn đến sự không công bằng trong điều kiện đảm bảo hoạt động cho các đoàn. Sự phụ thuộc về tài chính sẽ ảnh hưởng nhất định đến tâm thế chính trị, vai trò, vị trí của ĐBQH; phải chăng quy định như vậy là “lợi bất cập hại”. Vì thế, tôi đề nghị giữ nguyên như quy định hiện nay đối với Đoàn ĐBQH và Văn phòng giúp việc là phù hợp.

3. Về Văn phòng Đoàn ĐBQH: Dự thảo sửa đổi Khoản 4 Điều 43 quy định: “Chính quyền địa phương tổ chức bộ phận tham mưu giúp việc phục vụ hoạt động của Đoàn ĐBQH”. Tôi rất băn khoăn nội dung này, bởi không biết hiểu “Bộ phận tham mưu, giúp việc, phục vụ hoạt động của Đoàn ĐBQH” như thế nào cho đúng? Trong khi luật hiện hành quy định rõ Đoàn ĐBQH có Văn phòng giúp việc. Về nguyên tắc, Đoàn ĐBQH là một chủ thể đầy đủ trong hệ thống chính trị do luật định, thì nhất thiết phải có Văn phòng tham mưu, giúp việc, phục vụ bình đẳng như tất cả các tổ chức khác. Còn mô hình tổ chức Văn phòng đó như thế nào còn chờ tổng kết, kết luận? Và nếu có ra sao đi nữa thì Văn phòng đó (chung hoặc riêng) đều có chức năng phục vụ hoạt động Đoàn ĐBQH. Vì thế, không thể nói là “Bộ phận tham mưu, giúp việc, phục vụ” không chính danh như thế này được. Do đó, tôi đề nghị định danh rõ : Đoàn ĐBQH có Văn phòng tham mưu, giúp việc, phục vụ là phù hợp, chẳng vướng bận gì câu chuyện Văn phòng chung, hay riêng cả.

4. Về luật hóa việc chuyển một số Ban của UBTVQH thành Ban của Quốc hội. Qua nghiên cứu các văn bản kết luận của Trung ương, các quy định của Hiến pháp về thẩm quyền Quốc hội cũng như cơ cấu tổ chức bên trong của Quốc hội; thực tiễn yêu cầu nhiệm vụ và kết quả hoạt động, để nâng cao trách nhiệm chính trị, xác định vị trí pháp lí tương xứng cho 2 Ban thuộc UBTVQH, tôi đề nghị cần đặt vấn đề để chuyển Ban Công tác đại biểu và Ban Dân nguyện thuộc UBTVQH là cơ quan chuyên môn của Quốc hội trong sửa đổi, bổ sung luật lần này.

Cuối cùng, tôi thống nhất sự cần thiết ban hành Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội để khắc phục một số vướng mắc, bất cập, đáp ứng yêu cầu mới như báo cáo của UBTVQH và xin nhấn mạnh: Việc sửa đổi, bổ sung phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội và Đoàn ĐBQH; hay nói cách khác sửa đổi, bổ sung phải làm cho Quốc hội mạnh lên, Quốc hội phải thực quyền, hoạt động phải thực chất tương xứng với địa vị pháp lí là cơ quan quyền lực cao nhất của nước ta. Tuy nhiên, những nội dung sửa đổi, bổ sung lần này chủ yếu là những vấn đề mang tính kĩ thuật, giải quyết những vướng mắc trong tổ chức thực hiện luật chứ chưa đặt vấn đề về những vấn đề lớn, cốt lõi nhất. Mặt khác, luật sẽ áp dụng cho nhiệm kì sau, nghĩa là chúng ta còn thời gian để nghiên cứu, tổng kết, đánh giá kĩ lưỡng để sửa đổi thêm nhiều nội dung cơ bản nhất, và do đó tôi đề nghị xem xét thông qua 2 kì họp.Quốc hội ta làm luật cho muôn dân, nhất thiết phải chuẩn bị xây dựng cho chính mình một bộ luật thật mẫu mực, thực sự là đỉnh cao của quyền lực và tầm cao về trí tuệ.

Xin trân trọng cảm ơn Quốc hội!

Đánh giá phương án huy động vốn liên quan đến dự án đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành

 Đại biểu Hà Sỹ Đồng phát biểu tại hội trường - Ảnh: PHN

Đại biểu Hà Sỹ Đồng phát biểu tại hội trường - Ảnh: PHN

Kính thưa Quốc hội!

Theo Phương án đầu tư số 2.1 trong Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án, trong tổng số 4,194 tỉ USD vốn của ACV đầu tư vào dự án, dự kiến ACV phải đi vay khoảng 2,628 tỉ USD trên thị trường vốn quốc tế hoặc trong nước, giải ngân trong giai đoạn 2021-2025.

Trước hết, ACV là doanh nghiệp do nhà nước chi phối (chiếm 95,4% vốn chủ sở hữu), nên dù doanh nghiệp này huy động vốn dưới hình thức nào trên thị trường vốn quốc tế thì mặc nhiên Chính phủ Việt Nam, theo con mắt của nhà đầu tư quốc tế, dù không cấp bảo lãnh đối với khoản vay, vẫn phải có trách nhiệm và nghĩa vụ tài chính chủ yếu trong trường hợp ACV không trả được nợ vay.

Tuy nhiên, do tầm quan trọng quốc gia của dự án đầu tư, cũng như do vị thế và tiềm lực của ACV ở Việt Nam, khả năng vay thương mại nước ngoài của ACV (cụ thể là vay kì hạn 15 năm, ân hạn 5 năm, với lãi suất tầm 5 tới 5.5%/ năm) là có tính khả thi. Nhận định này dựa trên một số cơ sở sau: Tham chiếu mức lợi suất trái phiếu Kho bạc Mỹ kì hạn 20 năm do Bộ Ngân khố Mỹ công bố, hiện chỉ khoảng 2,27%/năm; loại kì hạn 10 năm chỉ cỡ 1,93%/năm, tương đối thấp. Tham chiếu chỉ số hoán đổi rủi ro vỡ nợ tín dụng CDS loại hợp đồng 10 năm của Việt Nam do Reuters công bố, hiện là 163,78 điểm cơ bản, tức gần 1,64%/năm. Cục Dự trữ liên bang Mỹ FED đã có 3 lần hạ lãi suất điều hành trong năm nay và phát tín hiệu khả năng sẽ giữ nguyên mức lãi suất hiện hành cho tới cuối năm 2020, sau đó có thể điều chỉnh tăng dần trở lại.

Theo Báo cáo của Bộ Tài chính, nợ nước ngoài của quốc gia ước đến cuối năm 2019 vào khoảng 45,8% GDP, cỡ 124 tỉ USD (dưới khá xa mức trần cho phép tầm 135 tỉ USD). Dự kiến năm 2020 tăng trưởng GDP đạt kế hoạch 6,8% so năm 2019, thì hạn mức nợ nước ngoài của quốc gia tối đa có thể tới cỡ 144 tỉ USD. Như vậy dư địa nợ nước ngoài của khối doanh nghiệp, tổ chức tín dụng theo phương thức tự vay tự trả cũng được nới rộng, bảo đảm cho phương án huy động vốn quốc tế của ACV có điều kiện thực hiện. Cuối cùng, những thành tựu phát triển kinh tế, ổn định vĩ mô, ổn định an ninh, chính trị của Việt Nam những năm gần đây khá ấn tượng. Thêm nữa, một dự án quan trọng tầm quốc gia được ACV làm chủ đầu tư do Chính phủ chỉ định thầu, giúp thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế. Bên cạnh đó, ACV cũng đang thực hiện công tác đánh giá xếp hạng tín nhiệm bởi các tổ chức xếp hạng uy tín nhất trên thế giới nhằm thực hiện công tác huy động vốn một cách tối ưu cho dự án, phù hợp với các thông lệ quốc tế.

Chính các ngân hàng lớn trong nước cũng rất muốn được tham gia đồng thu xếp vốn cho ACV. Phương án huy động một phần nhu cầu vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong nước cũng khá khả thi. Việc Chính phủ đã từng phát hành thành công trái phiếu trong nước bằng ngoại tệ, chỉ định đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, là những tiền lệ thành công đáng tham khảo.

Điều quan ngại nằm ở chỗ: Do kì vọng sân bay Long Thành sớm trở thành cảng hàng không trong khu vực, cạnh tranh được với các sân bay lớn khác đang đóng vai trò này như Hong Kong, Singapore, Kuala Lumpur, Bang kok... còn là “câu chuyện ở thì tương lai”. Bởi vậy, phương án tài chính trong Báo cáo nghiên cứu kinh tế được tính toán dựa trên cơ sở dự kiến khả năng khai thác dự án đầu tư khi đưa vào sử dụng, chứa đựng nhiều yếu tố bất định và rủi ro cho ACV. Dự tính kế hoạch hoàn vốn đầu tư vì thế cần được xem xét kĩ lưỡng và cẩn trọng hơn.

Xin trân trọng cảm ơn Quốc hội!

Hoài Nam - Phương Thanh (tổng hợp)

Nguồn Quảng Trị: http://www.baoquangtri.vn/default.aspx?tabid=71&modid=415&itemid=143832