Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh thảo luận tại tổ về 3 dự án luật lĩnh vực khoa học công nghệ
Tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, chiều 6/11, các đại biểu thảo luận ở tổ về: Dự án Luật Chuyển đổi số; Dự án Luật Công nghệ cao (sửa đổi); Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ.

Các đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh, Cà Mau thảo luận tại tổ, chiều 6/11.
Góp ý kiến vào Dự án Luật Chuyển đổi số, đại biểu Trần Quốc Tỏ cho biết: Theo quy định tại Điều 8 của Luật Dữ liệu, công tác quản lý, giám sát các hoạt động xây dựng, phát triển, bảo vệ, quản trị, xử lý và sử dụng dữ liệu, bảo đảm an ninh, an toàn dữ liệu là do Bộ Công an đảm nhận, là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động này, trừ phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Quốc phòng.
Trong khi đó, tại khoản 3 Điều 47 của dự thảo Luật lại quy định Bộ Khoa học và Công nghệ là đầu mối quản lý nhà nước về hoạt động chuyển đổi số, bao gồm cả các hoạt động quản lý, giám sát và hoạt động chuyển đổi số.

Đại biểu Trần Quốc Tỏ phát biểu trong phiên thảo luận tại tổ, chiều 6/11.
Như vậy, có biểu hiện chồng chéo, chưa thống nhất với quy định của Luật Dữ liệu. Do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cần rà soát, cân nhắc chỉnh lý, phân tích rõ trách nhiệm chủ trì, phối hợp của các cơ quan có liên quan trong công tác chuyển đổi số được quy định tại dự thảo luật nhằm bảo đảm tính phù hợp, thống nhất với hệ thống pháp luật.
Đại biểu Nguyễn Thị Kim Anh cho rằng cần rà soát khoản 1 và khoản 3 Dự thảo Luật Chuyển đổi số (nguyên tắc quản lý và khai thác dữ liệu phục vụ chuyển đổi số) để bảo đảm không mâu thuẫn, trùng lặp với Luật Dữ liệu và Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân. Đề nghị làm rõ quy định “ưu tiên sử dụng dữ liệu công để phát triển dịch vụ, tiện ích cho chuyển đổi số”.

Đại biểu Nguyễn Thị Kim Anh thảo luận tại tổ, chiều 6/11.
Để dự án luật được lan tỏa, đại điểu đề nghị cần nhấn mạnh nội dung về chuyển đổi số cộng đồng nhằm khuyến khích người dân, tổ chức xã hội, thôn bản, khu dân cư chủ động ứng dụng chuyển đổi số vào đời sống, sản xuất, quản lý và giao tiếp xã hội. Qua đó nâng cao năng lực số cho người dân, thu hẹp khoảng cách số, hình thành cộng đồng số an toàn, sáng tạo.
Cần có cơ chế khuyến khích người dân, tổ chức, doanh nghiệp tham gia chia sẻ tri thức, công nghệ, sáng kiến, quy định mang tính khung về mô hình tổ chuyển đổi số cộng đồng hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, làm cơ sở để quy định chi tiết tại văn bản dưới luật, có cơ chế hỗ trợ về tài chính, hạ tầng, đào tạo, nhất là cho cộng đồng yếu thế, vùng đồng bào dân tộc thiểu số - góp phần lan tỏa chuyển đổi số ở cơ sở, bảo đảm tính bền vững, an toàn số, gắn chuyển đổi số cộng đồng với phát triển kinh tế số và xã hội số trên phạm vi cả nước. Đề nghị bổ sung giải thích từ ngữ “chuyển đổi số cộng đồng” tại Điều 3 và bổ sung chính sách cho đối tượng này tại Điều 4 của dự thảo luật.
Đồng thuận với chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ được quy định tại Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ, đại biểu Trần Văn Lâm làm rõ thêm: Hiện nay, chúng ta đã có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, như quỹ khoa học - công nghệ trong Luật Khoa học và Công nghệ. Quỹ này được trích từ lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp và sử dụng cho đầu tư, mua sắm, chuyển giao công nghệ mới, phục vụ trực tiếp hoạt động của doanh nghiệp.
Dự thảo luật lần này còn đưa ra chính sách mạnh hơn. Tại Điều 35, quy định cơ chế ưu đãi tiếp nhận công nghệ, cho phép chi phí chuyển giao công nghệ được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế, với mức ưu đãi từ 100%, 150% đến 200%. Chính sách này nếu được áp dụng sẽ tạo động lực rất lớn, giúp doanh nghiệp chủ động đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, cần làm rõ mối quan hệ giữa hai chính sách: Quỹ khoa học - công nghệ (lấy từ lợi nhuận trước thuế) và chính sách ưu đãi thuế mới.
Quỹ khoa học - công nghệ chỉ được trừ một lần, trong khi chính sách ưu đãi mới có thể cho phép trừ đến hai lần chi phí. Điều này có thể khiến doanh nghiệp dồn toàn bộ chi phí vào kỳ tính thuế hiện tại thay vì sử dụng quỹ khoa học - công nghệ, làm giảm hiệu quả của quỹ. Do vậy, cần đánh giá tác động của chính sách này đến quỹ khoa học - công nghệ, đồng thời quy định rõ cơ chế phối hợp giữa hai chính sách, tránh chồng chéo, bảo đảm phát huy hiệu quả tổng thể. Nếu chưa thể làm rõ ngay trong dự thảo luật, nên giao Chính phủ nghiên cứu, hoàn thiện trong quá trình triển khai để phát huy tối đa tác dụng của các chính sách khuyến khích chuyển giao công nghệ.

Đại biểu Trần Thị Vân phát biểu tại phiên thảo luận.
Góp ý kiến vào Dự án Luật Công nghệ cao (sửa đổi), Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh Trần Thị Vân cho rằng, để thu hút được nhân lực chất lượng cao, ngoài chính sách về môi trường, ưu đãi về thuế thu nhập thì khu công nghệ cao cần có: Cơ sở hạ tầng hiện đại; môi trường tự nhiên trong lành; văn hóa doanh nghiệp và môi trường nhân sự; hệ sinh thái hỗ trợ đổi mới; quản lý và các chính sách minh bạch. Vì vậy, bên cạnh các chính sách hiện có, đề xuất cần có thêm chính sách đặc thù về môi trường làm việc trong cơ sở nghiên cứu, dự án công nghệ cao, công nghệ chiến lược để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao từ nước ngoài và trong nước, đặc biệt là các tổng công trình sư, nhà khoa học, chuyên gia trình độ cao từ nước ngoài.
Về tiêu chí để ưu đãi cho doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ cao và doanh nghiệp công nghệ chiến lược được ưu tiên đầu tư, đại biểu cho biết: Trong dự thảo, doanh nghiệp công nghệ cao được ưu đãi theo mức 1 là “Doanh nghiệp công nghệ cao có nhà đầu tư trong nước chiếm tỷ lệ phần vốn góp hoặc tỷ lệ sở hữu cổ phần của doanh nghiệp trong nước trên 30%...”.
Đối với doanh nghiệp công nghệ chiến lược được ưu đãi đầu tư ở mức 1 là “doanh nghiệp công nghệ chiến lược có nhà đầu tư trong nước chiếm tỷ lệ phần vốn góp hoặc tỷ lệ sở hữu cổ phần của doanh nghiệp trong nước trên 50%…”. Nếu nhìn vào tỷ lệ góp vốn trong nước để xây dựng mức ưu tiên cho doanh nghiệp công nghệ cao là chưa hợp lý, chưa có cơ sở khoa học bởi thiếu hai tiêu chí rất quan trọng là giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa hóa của doanh nghiệp. Vì vậy, đề nghị bổ sung tiêu chí về giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa hóa đối với doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ cao và doanh nghiệp công nghệ chiến lược được ưu tiên đầu tư.
Đại biểu Nguyễn Thị Hà cho biết, tại khoản 1 Điều 24 Dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) quy định: “Đô thị công nghệ cao là đô thị có một phần diện tích là khu công nghệ cao…”. Cách định nghĩa này mang tính khái quát cao, nhưng lại thiếu tiêu chí định lượng tối thiểu. Nếu không xác định rõ tỷ lệ diện tích hoặc các tiêu chí về quy mô, mức độ tập trung của khu công nghệ cao trong tổng thể đô thị, rất dễ dẫn đến tình trạng áp dụng tùy tiện, thậm chí có thể bị lợi dụng trong quy hoạch, làm giảm chất lượng và mục tiêu của mô hình đô thị công nghệ cao.
Ngoài ra, việc thiếu tiêu chí rõ ràng cũng dẫn đến rủi ro phân tán nguồn lực, đô thị có thể gắn “mác” công nghệ cao nhưng không đủ không gian, hạ tầng hay quy mô để hình thành trung tâm đổi mới sáng tạo; từ đó làm suy giảm hiệu quả chính sách và ảnh hưởng đến tính thống nhất của hệ thống pháp luật về đô thị.
Đại biểu đề nghị làm rõ ngay trong luật các tiêu chí mang tính nguyên tắc, đặc biệt là tỷ lệ diện tích tối thiểu dành cho khu công nghệ cao trong đô thị công nghệ cao (chẳng hạn 5-7% diện tích đô thị) hoặc quy định rõ yêu cầu về quy mô, mức độ tập trung của khu công nghệ cao trong đô thị công nghệ cao. Các nội dung kỹ thuật, chuyên sâu sẽ do Chính phủ quy định chi tiết theo thẩm quyền đảm bảo đồng bộ, minh bạch của chính sách.













