Đại biểu Quốc hội tỉnh góp ý vào dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp

Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, sáng 31/10, Quốc hội thảo luận ở Tổ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp; dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điều ước quốc tế.

Đồng chí Nguyễn Đức Hải, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội dự phiên thảo luận tại Tổ 16 gồm Đoàn ĐBQH các tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Cao Bằng, Tuyên Quang. Đại biểu Quản Minh Cường, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Cao Bằng chủ trì điều hành phiên thảo luận tại Tổ.

Đồng chí Quản Minh Cường, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh điều hành phiên tảo luận tại Tổ.

Đồng chí Quản Minh Cường, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh điều hành phiên tảo luận tại Tổ.

Thảo luận tại Tổ, các đại biểu nhất trí với sự cần thiết ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công nghiệp quốc phòng (CNQP), an ninh và động viên công nghiệp cũng như Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại về dự án Luật. Các ý kiến nhấn mạnh, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật này đã cụ thể hóa và phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển CNQP, an ninh trong thời gian qua; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và thống nhất trong hệ thống pháp luật; đồng thời, việc phát triển về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã được cụ thể hóa trong dự án Luật này.

Các ý kiến cơ bản nhất trí với các quy định về Quỹ đầu tư phát triển công nghiệp an ninh (CNAN), Tổ hợp CNAN quốc gia, Hội đồng quản lý phát triển CNAN, với các cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội nhằm tạo lập môi trường phát triển CNAN, đáp ứng yêu cầu cấp bách của tình hình thực tiễn.

Tán thành đề xuất tách riêng Quỹ công nghiệp quốc phòng, an ninh thành hai loại Quỹ

Quan tâm về Quỹ đầu tư phát triển CNAN, các đại biểu đề xuất tách riêng Quỹ CNQP và Quỹ CNAN, đề nghị Cơ quan soạn thảo quy định hoạt động của Quỹ này phải được sự giám sát của cơ quan tài chính hoặc cơ quan quản lý về tài chính của quốc gia và phải được thực hiện kiểm toán. Nếu có sử dụng vốn của Nhà nước thì cần có sự đánh giá và có giải pháp bảo đảm an toàn vốn trong thời gian tới.

Về thực hiện nhiệm vụ của Quỹ CNQP và Quỹ CNAN, các đại biểu cho rằng, nhiệm vụ thực hiện của hai Quỹ này phải tương đương nhau.

Liên quan đến Hội đồng quản lý phát triển CNAN quy định tại Điều 79 của dự thảo Luật, các đại biểu nhận thấy, quy định này trong dự thảo Luật còn nêu chung chung, đề nghị Cơ quan soạn thảo cần quy định mang tính nguyên tắc vào trong dự thảo Luật. Nếu không quy định chi tiết trong Luật thì đề nghị giao Chính phủ quy định chi tiết về Hội đồng quản lý này để bảo đảm chặt chẽ và chi tiết hơn.

Về sản phẩm CNAN, các đại biểu cơ bản nhất trí với các ưu đãi nêu trong dự thảo. Tuy nhiên, đề nghị Cơ quan soạn thảo rà soát lại việc thực hiện CNQP và CNAN; đồng thời, nghiên cứu giải pháp để các sản phẩm QPAN này được khuyến khích sử dụng trong công tác dân sự và trong đời sống.

Đảm bảo cơ chế giám sát công khai, minh bạch đối với các Quỹ

Cùng quan điểm với các đại biểu trong Tổ về đề xuất tách Quỹ CNQP, an ninh thành 2 loại quỹ khác nhau, đại biểu Bế Minh Đức, Tỉnh ủy viên, Phó trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh tán thành ủng hộ nội dung này để tạo sự chủ động trong triển khai phát triển CNQP và CNAN.

Đại biểu Bế Minh Đức, Phó trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh phát biểu phát biểu thảo luận tại tổ.

Đại biểu Bế Minh Đức, Phó trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh phát biểu phát biểu thảo luận tại tổ.

Tuy nhiên, đại biểu bày tỏ băn khoăn về cách đặt tên Quỹ. Hiện nay dự thảo Luật đề xuất tên gọi là Quỹ CNQP và Quỹ đầu tư phát triển CNAN. Đại biểu Bế Minh Đức kiến nghị nên rà soát, xem xét tên gọi là Quỹ CNQP và Quỹ CNAN để phù hợp hơn với khoản 1 Điều 2 trong phần giải thích từ ngữ của Luật hiện hành.

“Tôi cho rằng, nếu quy định là Quỹ đầu tư phát triển CNANh thì phạm vi hoạt động chủ yếu của Quỹ là tham gia vào các chương trình, dự án. Quy định như vậy có thể chưa đầy đủ và phạm vi của Quỹ có phần bó hẹp và hạn chế hơn. Do vậy, tôi đề nghị nghiên cứu quy định là Quỹ CNAN để hoạt động sau này của Quỹ được thuận lợi hơn”, đại biểu kiến nghị.

Về quản lý và cơ chế giám sát, đại biểu Bế Minh Đức đề nghị Cơ quan soạn thảo nghiên cứu bổ sung các quy định về cơ chế giám sát công khai, minh bạch của cả 2 loại Quỹ này. Bởi hiện dự thảo Luật cũng chưa có quy định cụ thể về cơ chế này và việc bổ sung quy định này nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch, tránh trùng lắp; đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước cũng như ngăn ngừa các rủi ro, thất thoát trong quản lý tài chính.

Làm rõ vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng quản lý phát triển CNAN

Góp ý về Điều 45d của dự thảo Luật quy định chính sách của Nhà nước đối với Tổ hợp công nghiệp an ninh quốc gia, các đại biểu cho rằng, tại khoản 1 Điều này, dự thảo Luật quy định các chính sách về ưu đãi, hỗ trợ trong phát triển CNAN, tuy nhiên chưa thể hiện rõ ràng tiêu chí, phạm vi và thứ tự ưu tiên giữa các nhóm đối tượng được thụ hưởng.

Vì vậy, các đại biểu đề nghị Cơ quan soạn thảo cân nhắc cụ thể hóa hơn các chính sách này, xác định rõ nguyên tắc ưu tiên theo hướng: (1) cho các doanh nghiệp, tổ chức trực tiếp thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, sản xuất, sửa chữa, bảo dưỡng, cung ứng sản phẩm, dịch vụ an ninh; (2) các tổ chức khoa học - công nghệ, doanh nghiệp dân sự có năng lực, tham gia hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp an ninh; (3) các địa phương, cơ sở giáo dục, đào tạo kỹ thuật tham gia phát triển nguồn nhân lực và hạ tầng phục vụ CNAN. Các đại biểu nhận thấy, việc xác định rõ đối tượng thụ hưởng sẽ giúp chính sách đi vào thực tiễn, tránh dàn trải và bảo đảm hiệu quả sử dụng nguồn lực.

Liên quan đến quy định tại khoản 7, Điều 79 của dự thảo Luật về việc bổ sung Hội đồng quản lý phát triển CNAN, các đại biểu cho rằng, việc thành lập Hội đồng này là cần thiết nhằm tăng cường cơ chế phối hợp, tư vấn, điều phối các hoạt động phát triển CNAN giữa các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp.

Tuy nhiên, dự thảo Luật hiện chưa làm rõ vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cũng như mối quan hệ của Hội đồng với cơ quan chuyên trách về CNAN, đặc biệt là với Bộ Công an - Cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.

Để bảo đảm tính thống nhất trong quản lý và tránh chồng chéo về thẩm quyền, các đại biểu đề nghị Cơ quan soạn thảo quy định rõ tính chất của Hội đồng này là cơ quan tư vấn, phối hợp liên ngành hay cơ quan quản lý điều hành. Phân định cụ thể trách nhiệm giữa Hội đồng và cơ quan chuyên trách về CNAN, tránh trùng lặp chức năng. Đồng thời, làm rõ thẩm quyền ra quyết định, cơ chế chịu trách nhiệm và chế độ làm việc của Hội đồng, bảo đảm tính khả thi trong tổ chức thực hiện khi luật được ban hành.

Bên cạnh đó, các đại biểu cũng kiến nghị, trong quá trình hoàn thiện Luật, cần đánh giá kỹ mô hình tổ chức tương tự đang vận hành trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng để có thể kế thừa, điều chỉnh phù hợp với đặc thù của công nghiệp an ninh.

Cũng tại Phiên họp, các đại biểu thảo luận về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điều ước quốc tế. Tán thành với sự cần thiết ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điều ước quốc tế (ĐƯQT), các ý kiến khẳng định, việc sửa đổi Luật nhằm kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, nhất là các Nghị quyết chuyên đề mà Bộ Chính trị vừa ban hành; đồng thời hoàn thiện thể chế, chính sách và pháp luật về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; cải cách hành chính, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong ký kết ĐƯQT; khắc phục các “điểm nghẽn” trong Luật ĐƯQT hiện hành, đáp ứng yêu cầu chính trị, công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước. Hồ sơ dự án Luật đầy đủ, đúng quy định, bảo đảm chất lượng, đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, thông qua theo trình tự, thủ tục rút gọn.

Đại biểu Quốc hội Đoàn Thị Lê An, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh, Chủ tịch Hội LHPN tỉnh tham gia nhiều ý kiến thiết thực liên quan đến việc chuẩn bị đàm phán quốc tế; đề xuất đàm phán, ký, phê duyệt, phê chuẩn; ủy quyền trong trường hợp đặc biệt.

Tán thành với sự cần thiết ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điều ước quốc tế với những lý do nêu tại Tờ trình của Chính phủ, báo cáo thẩm tra của Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội. Đại biểu Đoàn Thị Lê An cho biết, dự thảo Luật đã kịp thời thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng, các Nghị quyết chuyên đề mà Bộ Chính trị mới ban hành; đồng thời hoàn thiện thể chế, chính sách và pháp luật về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

Đại biểu Đoàn Thị Lê An phát biểu thảo luận tại tổ.

Đại biểu Đoàn Thị Lê An phát biểu thảo luận tại tổ.

Về chuẩn bị đàm phán điều ước quốc tế, đại biểu nhấn mạnh, tại khoản 2, Điều 9 dự thảo Luật đã giảm thời hạn lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức từ 15 ngày xuống 10 ngày. Theo đại biểu, việc rút ngắn thời gian này là rất tích cực, thể hiện tinh thần cải cách thủ tục hành chính mạnh mẽ, tương đồng với xu hướng tại các dự án luật khác như Luật Đất đai (sửa đổi) hay Luật Đầu tư, nhằm đẩy nhanh tiến độ xử lý công việc. Tuy nhiên, thời gian 10 ngày là rất ngắn đối với các điều ước quốc tế phức tạp, có ảnh hưởng sâu rộng (quốc phòng, an ninh, kinh tế - xã hội). Đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo làm rõ thêm sự khác biệt trong thời hạn xử lý giữa các loại điều ước có tính chất phức tạp khác nhau; cơ chế bảo đảm chất lượng, tính cẩn trọng của ý kiến, kiểm tra, thẩm định khi thời gian bị rút ngắn.

Về cơ chế đồng thời đề xuất đàm phán, ký, phê duyệt/phê chuẩn (tại Điều 71, 71a), theo đó dự thảo Luật cho phép cơ quan đề xuất đồng thời đề xuất đàm phán và ký điều ước quốc tế, nếu điều ước đã đủ rõ, đủ chi tiết để thực hiện. Từ thực tiễn, đại biểu cho rằng đây là quy định đột phá, thể hiện sự linh hoạt cao, đặc biệt quan trọng trong bối cảnh đối ngoại phức tạp và các hội nghị quốc tế có tính chất cấp bách, giúp tăng tốc quy trình, tiết kiệm thời gian, chi phí, tránh sự chậm trễ không cần thiết và tạo điều kiện để Việt Nam kịp thời tham gia, phát huy vai trò trong các khuôn khổ hợp tác. Quy định này cũng tương tự việc rút gọn quy trình trong một số lĩnh vực pháp luật đặc thù, ví dụ như quy trình lập pháp rút gọn đối với các dự án luật có tính chất cấp bách, nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước. Đại biểu đề nghị giữ nguyên và tiếp tục hoàn thiện các điều khoản này.

Về ủy quyền trong trường hợp đặc biệt (Điều 72a), dự thảo bổ sung cơ chế cho phép Chủ tịch nước ủy quyền cho Thủ tướng Chính phủ quyết định việc đàm phán, ký, sửa đổi, bổ sung một số điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước, trong một khoảng thời gian xác định, trong trường hợp cần thiết để xử lý yêu cầu thực tế hoặc cấp bách về đối ngoại. Theo đại biểu, quy định này là cần thiết để tăng cường sự linh hoạt và khả năng ứng phó kịp thời của Chính phủ, đặc biệt trong các tình huống đối ngoại khẩn cấp, tương tự như việc ủy quyền thực hiện một số thẩm quyền lập pháp hoặc hành pháp trong tình huống đặc biệt theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội. Tuy nhiên, đại biểu Đoàn Thị Lê An đề xuất cần lưu ý việc bảo đảm nguyên tắc hiến định về thẩm quyền của Chủ tịch nước và giới hạn rõ ràng phạm vi, điều kiện áp dụng để tránh lạm dụng, đặc biệt là việc không áp dụng đối với các điều ước có liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, thành lập các tổ chức quốc tế.

Cùng với đó, đại biểu đề xuất bổ sung quy định Điều 72a như sau: “Trong mọi trường hợp ủy quyền theo quy định tại điều này, Bộ Ngoại giao có trách nhiệm giám sát, báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện ủy quyền và đề xuất biện pháp xử lý đối với những nội dung phát sinh vượt thẩm quyền hoặc không còn phù hợp”. Theo đại biểu, quy định hiện tại chỉ dừng ở việc cho phép ủy quyền mà chưa có cơ chế giám sát, kiểm soát hậu ủy quyền, dễ dẫn đến rủi ro trong thực thi quyền ký kết, đàm phán điều ước quốc tế. Việc bổ sung này nhằm bảo đảm nguyên tắc chịu trách nhiệm, tăng cường quản lý thống nhất của Chính phủ và Bộ Ngoại giao trong công tác đối ngoại.

Về thay thế cụm từ "ngày" bằng "ngày làm việc" (tại khoản 28, Điều 1), dự thảo đề xuất thay thế cụm từ “ngày” bằng cụm từ “ngày làm việc” tại các Điều 60 và 63. Đại biểu Đoàn Thị Lê An đề nghị rà soát và thay thế thống nhất cụm từ này trong toàn bộ dự thảo Luật, nơi quy định về thời hạn, đặc biệt là các điều khoản rút ngắn thời gian lấy ý kiến, kiểm tra, thẩm định (chủ yếu là 10 ngày) để bảo đảm tính khả thi và rõ ràng trong áp dụng pháp luật, tránh cách hiểu khác nhau giữa ngày dương lịch và ngày làm việc, vốn là vấn đề thường gây tranh cãi trong các văn bản pháp luật hiện hành.

Đại biểu cũng đề xuất bổ sung nhiều ý kiến thiết thực như: bổ sung tại khoản 3, Điều 60 (Công bố điều ước quốc tế): “3. Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học Công nghệ, cơ quan đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về điều ước quốc tế, bảo đảm cập nhật, tra cứu công khai, thuận tiện và thống nhất trên toàn quốc”. Thực tế hiện nay, việc tra cứu điều ước quốc tế Việt Nam là thành viên còn phân tán, thiếu cập nhật, gây khó khăn cho cơ quan, tổ chức và cá nhân. Việc lập cơ sở dữ liệu quốc gia về điều ước quốc tế tăng tính minh bạch, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm nghĩa vụ công khai theo Luật Tiếp cận thông tin và phục vụ hội nhập quốc tế sâu rộng. Đề xuất bổ sung quy định mới sau Điều 79 (Trách nhiệm tổ chức thực hiện), đề nghị bổ sung Điều 79a: “Điều 79a. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý điều ước quốc tế. 1. Cơ quan đề xuất, Bộ Ngoại giao và Bộ Tư pháp có trách nhiệm ứng dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý, lưu trữ, tra cứu và trao đổi dữ liệu liên quan đến điều ước quốc tế. 2. Các văn bản, tài liệu điện tử có giá trị pháp lý tương đương bản giấy nếu được xác thực theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử. 3. Chính phủ quy định chi tiết việc quản lý, vận hành, bảo đảm an toàn, bảo mật thông tin trong hệ thống dữ liệu điện tử về điều ước quốc tế” phù hợp với định hướng chuyển đổi số trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, giúp tiết kiệm chi phí, thời gian, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các bộ, ngành. Tăng tính khả thi trong lưu trữ, đối chiếu, công bố và thực hiện nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam.

Những đề xuất của đại biểu Đoàn Thị Lê An hướng tới hoàn thiện dự thảo Luật rõ ràng, khả thi và phù hợp hơn với yêu cầu cấp thiết, nhằm khắc phục các hạn chế, vướng mắc là “điểm nghẽn” trong quá trình thực hiện Luật Điều ước quốc tế, kịp thời thể chế hóa chủ trương của Đảng, Nhà nước theo các nghị quyết liên quan ban hành thời gian qua.

Dương Tường

Nguồn Cao Bằng: https://baocaobang.vn/dai-bieu-quoc-hoi-tinh-gop-y-vao-du-thao-luat-sua-doi-bo-sung-mot-so-dieu-cua-luat-cong-nghiep-quoc--3181864.html