Đại biểu Quốc hội tỉnh Long An đóng góp dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam

Chiều 17/5, thảo luận tại tổ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam, đại biểu Phan Thị Mỹ Dung - Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Long An, cho rằng việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch hiện hành là rất cần thiết. Tuy nhiên cần hoàn thiện một số quy định cụ thể nhằm bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật và phù hợp với tình hình thực tế.

Theo đại biểu Phan Thị Mỹ Dung, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2014) cơ bản đã thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về vấn đề quốc tịch và công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về quốc tịch.

Tuy nhiên, trước các yêu cầu mới của thực tiễn phát triển đất nước, để đáp ứng tốt hơn nguyện vọng chính đáng của người Việt Nam ở nước ngoài được nhập, được trở lại quốc tịch Việt Nam; đồng thời, tiếp tục thu hút, tạo điều kiện, khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài, trong đó có các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành trên các lĩnh vực “trở về thăm quê hương, đầu tư sản xuất, kinh doanh, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam” thì việc sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam là rất cần thiết.

Đại biểu Phan Thị Mỹ Dung - Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Long An, tham gia đóng góp dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam

Đại biểu Phan Thị Mỹ Dung - Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Long An, tham gia đóng góp dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam

Các quy định “nới lỏng” điều kiện nhập quốc tịch dự thảo Luật cũng đáp ứng được chủ trương về có “cơ chế đặc biệt về nhập quốc tịch” để phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia theo Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị.

Đặc biệt, đại biểu Mỹ Dung cho rằng, việc mở rộng các trường hợp được nhập, được trở lại quốc tịch Việt Nam như quy định của dự thảo Luật cùng với những chính sách mới về sử dụng đất, sở hữu nhà ở, kinh doanh bất động sản,… đối với công dân Việt Nam đang định cư ở nước ngoài được quy định trong các luật được Quốc hội thông qua thời gian gần đây sẽ góp phần tiếp tục phát huy ý thức dân tộc, lòng yêu nước, vai trò, tiềm năng, thế mạnh của khoảng 6 triệu người Việt Nam tại hơn 130 quốc gia, vùng lãnh thổ trở về xây dựng quê hương, đất nước.

Để bảo đảm sự đồng bộ của hệ thống của pháp luật, đại biểu Mỹ Dung cho rằng, dự thảo luật cần sửa đổi, bổ sung một số điều khoản cho phù hợp với tình hình thực tế.

Cụ thể, góp ý vào khoản 5 Điều 5 của dự thảo Luật, đại biểu nhất trí với việc bổ sung, vì đã quy định rõ những đối tượng bắt buộc chỉ có một quốc tịch Việt Nam và phải thường trú tại Việt Nam, trừ trường hợp đặc biệt có lợi cho Nhà nước.

Đây là một quy định cần thiết nhằm bảo đảm an ninh chính trị, lợi ích quốc gia và khẳng định trách nhiệm của người mang quốc tịch Việt Nam. Quy định này cũng bảo đảm sự đồng bộ với các luật đã được Quốc hội ban hành gần đây như Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp, Luật Cán bộ, công chức, Luật Tổ chức chính quyền địa phương,….

Và để bảo đảm tính rõ ràng và mạch lạc của văn bản luật, đại biểu đề nghị bố cục lại đoạn này tách thành một khoản riêng và chỉnh sửa nội dung như sau: "Chính phủ quy định chi tiết khoản này. Trường hợp các luật có liên quan quy định khác với quy định này thì áp dụng quy định tại Luật này."

Bộ trưởng Bộ Tư pháp - Nguyễn Hải Ninh thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam

Bộ trưởng Bộ Tư pháp - Nguyễn Hải Ninh thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam

Về việc bổ sung khoản 6 Điều 5, đại biểu nhận thấy quy định "Quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền Việt Nam về một số vấn đề liên quan đến quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật này không bị khiếu nại, khiếu kiện" là chưa thực sự rõ ràng.

Cụm từ "một số vấn đề liên quan" là những vấn đề cụ thể nào và phạm vi của chúng ra sao? Liệu quy định này chỉ áp dụng cho các quyết định cuối cùng về quốc tịch hay bao gồm cả các hành vi hành chính liên quan đến quá trình giải quyết hồ sơ?

Vì theo đại biểu thì vấn đề quốc tịch thể hiện mối quan hệ pháp lý giữa cá nhân và một quốc gia, phản ánh quyền chủ quyền của quốc gia. Việc cho phép cá nhân được nhập, trở lại, thôi hay bị tước quốc tịch thể hiện quyền tự quyết cao nhất của quốc gia đó do Chủ tịch nước ký quyết định.

Như vậy, với tính chất đặc thù trên thì quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về quốc tịch không thể là đối tượng của khiếu nại, khiếu kiện, không đặt vấn đề xem xét lại. Tuy nhiên, đối với các văn bản, hành vi hành chính của các cơ quan khác trong quá trình xem xét hồ sơ liên quan đến các cơ quan: Sở Tư pháp, UBND cấp tỉnh, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao,… người xin nhập, xin trở lại quốc tịch Việt Nam vẫn cần có quyền khiếu nại, khiếu kiện theo quy định của pháp luật hiện hành để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước những hành vi nhũng nhiễu, gây khó khăn hoặc giải quyết hồ sơ không đúng quy định.

Liên quan đến việc sửa đổi khoản 1 Điều 19 và bổ sung khoản 2a của dự thảo luật, đại biểu Mỹ Dung đề nghị: Về mặt kỹ thuật lập pháp, do khoản 1 Điều 19 và các khoản trong Điều 9c đều có sự sửa đổi, nên tiến hành bố cục và ký hiệu lại toàn bộ các khoản, điểm trong Điều 19 để bảo đảm tính hệ thống và tránh trùng lặp ký hiệu. Cụ thể Điều 19 sau khi sửa đổi có thể có 7 khoản, được ký hiệu từ 1 đến 7 và trong mỗi khoản có các điểm được ký hiệu bằng chữ cái (a, b, c, d, đ...). Việc này khác với Điều 21, nơi việc bổ sung khoản 2a là hợp lý vì khoản này không có các điểm bên trong.

Đồng thời, tại khoản 3 Điều 19 của dự thảo Luật, đại biểu Mỹ Dung cho rằng: Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã quy định rõ nguyên tắc "người nhập quốc tịch Việt Nam thì phải thôi quốc tịch nước ngoài, trừ những trường hợp đặc biệt được Chủ tịch nước cho phép". Quy định này giúp người có nguyện vọng nhập quốc tịch Việt Nam nắm rõ và cân nhắc trước khi quyết định.

Tuy nhiên, cách diễn đạt trong dự thảo Luật có thể dẫn đến cách hiểu rằng người xin nhập quốc tịch Việt Nam mặc nhiên được giữ quốc tịch nước ngoài nếu pháp luật nước đó cho phép và Việt Nam không chứng minh được việc sử dụng quốc tịch nước ngoài gây phương hại đến lợi ích quốc gia. Điều này dường như chưa thể hiện rõ tôn chỉ "Việt Nam là đất nước mà công dân có một quốc tịch", trừ một số trường hợp đặc biệt.

Do đó, đại biểu đề nghị sửa đổi, bổ sung khoản này theo hướng: Người xin nhập quốc tịch Việt Nam thì phải thôi quốc tịch nước ngoài. Trường hợp người xin nhập quốc tịch Việt Nam quy định tại khoản 2 và khoản 2a Điều này được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng các điều kiện do Chính phủ quy định và được Chủ tịch nước cho phép./.

Kiến Quốc

Nguồn Long An: https://baolongan.vn/dai-bieu-quoc-hoi-tinh-long-an-dong-gop-du-thao-luat-sua-doi-bo-sung-mot-so-dieu-cua-luat-quoc-tich-viet-nam-a195470.html