Đại đoàn kết - động lực đưa Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Cách đây 80 năm, khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đất nước phải đối mặt với muôn vàn khó khăn: Kinh tế kiệt quệ, ngân khố trống rỗng, lại liên tiếp bị các thế lực ngoại bang đe dọa.

Thế nhưng, dân tộc Việt Nam đã vươn lên, chiến thắng mọi kẻ thù, giữ vững nền độc lập nhờ một vũ khí vô giá: Tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc.

Cuộc mít tinh phát động khởi nghĩa giành chính quyền do Mặt trận Việt Minh tổ chức tại Nhà hát Lớn Hà Nội ngày 19-8-1945. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Cuộc mít tinh phát động khởi nghĩa giành chính quyền do Mặt trận Việt Minh tổ chức tại Nhà hát Lớn Hà Nội ngày 19-8-1945. Ảnh: Tư liệu TTXVN

1. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc “Tuyên ngôn Độc lập”, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Song, nền độc lập non trẻ ấy ngay lập tức phải đối mặt với “thù trong, giặc ngoài” và ba nguy cơ cấp bách mà Người gọi là “ba loại giặc”.

Giặc đói: Nạn đói kéo dài từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945 đã làm hơn 2 triệu người chết, trong khi dân số cả nước khi đó khoảng 20 triệu. Sau Cách mạng Tháng Tám, cứu đói trở thành nhiệm vụ hàng đầu. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Mỗi người nhịn ăn một bữa, mỗi tuần một lần” để góp gạo cứu đói; đồng thời phát động phong trào toàn dân “Tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm” nhằm khôi phục kinh tế.

Giặc dốt: Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Trước thực trạng hơn 90% dân số mù chữ, Người coi xóa nạn mù chữ là nhiệm vụ sống còn. Phong trào “Bình dân học vụ” phát động từ cuối 1945 đã huy động giáo viên, học sinh, cán bộ, trí thức, bộ đội... đi dạy chữ cho nhân dân. Chỉ trong vài năm, hơn 2 triệu người đã thoát mù chữ. Đây được coi là chiến thắng quan trọng góp phần nâng cao dân trí, tăng cường ý thức làm chủ, tạo nền tảng cho việc xây dựng chính quyền cách mạng vững mạnh.

Giặc ngoại xâm: Cuối 1945, thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam. Cùng lúc đó, quân đội của Tưởng Giới Thạch kéo vào miền Bắc, quân Anh đổ bộ vào miền Nam để giải giáp quân Nhật. Trước nguy cơ “thù trong, giặc ngoài”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”. Vì dã tâm của các thế lực thù địch mà Việt Nam buộc phải tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài trong suốt 30 năm với nhiều mất mát, hy sinh.

Chiến thắng lịch sử ngày 30-4-1975 là kết quả của tinh thần yêu nước, hơn thế là sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “... mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.

2. Sau ngày non sông thu về một mối, nước ta lại phải đối mặt với nhiều khó khăn to lớn, cả về kinh tế - xã hội, chính trị và quốc tế.

30 năm chiến tranh để lại hậu quả nghiêm trọng: Hàng triệu người chết và tàn tật; hạ tầng kinh tế, giao thông, công nghiệp bị tàn phá nghiêm trọng; kinh tế yếu kém, phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài (Liên Xô và các nước Đông Âu...). Hàng triệu người rơi vào cảnh thất nghiệp, đói nghèo lan rộng, lương thực thiếu thốn trầm trọng. Cùng với đó, tệ nạn xã hội và tâm lý hoang mang sau chiến tranh vẫn còn dai dẳng. Đáng chú ý, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, biên giới Tây Nam và phía Bắc lại bùng lên căng thẳng, dẫn đến cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam (1978) và cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc (1979). Trong bối cảnh ấy, nước ta tiếp tục bị Mỹ và các nước phương Tây bao vây, cấm vận kéo dài, đặc biệt sau khi Việt Nam giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot và Ieng Sary.

Bối cảnh lúc bấy giờ không chỉ nghèo đói, kiệt quệ, mà còn tồn tại nhiều hạn chế trong quản lý. Bộ máy điều hành hầu hết thiếu kỹ năng quản trị, thiếu hiểu biết về kinh tế thị trường, lại chịu ảnh hưởng của những nhận thức lệch lạc do lịch sử để lại. Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp khiến sản xuất, kinh doanh trì trệ, không phát huy được tiềm năng của các thành phần kinh tế. Năng suất lao động rất thấp, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp.

Bước sang thập niên 1980, nền kinh tế đất nước lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Hàng hóa khan hiếm, thị trường tự do bị cấm đoán, lạm phát phi mã, riêng năm 1986 đồng tiền mất giá tới 775% - mức cao nhất thế giới lúc bấy giờ. Tiền lương của cán bộ, công chức không đủ sống, người dân càng chật vật trong cảnh thiếu thốn. Lương thực, thực phẩm cũng khan hiếm trầm trọng, dù nông nghiệp đóng vai trò chủ lực.

Trước tình hình ấy, với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật”, Đảng đã khởi xướng công cuộc Đổi mới với những tư tưởng cốt lõi: Thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần cùng tồn tại, phát triển; Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế bằng pháp luật, quy hoạch và các chính sách vĩ mô; kết hợp phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; lấy dân làm gốc, mọi chính sách, chủ trương đều phải xuất phát từ lợi ích thiết thực của nhân dân; công cuộc đổi mới phải vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của người dân... Với tinh thần ấy, Đảng đã huy động được sự đồng thuận của 60 triệu người dân (thống kê năm 1986) từ Bắc chí Nam cùng chung tay vào công cuộc Đổi mới, phát triển sản xuất kinh doanh, xóa đói giảm nghèo...

Công cuộc Đổi mới đã đem lại những thành tựu to lớn, toàn diện và sâu sắc. Từ nền kinh tế bao cấp trì trệ, Việt Nam vươn lên thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất châu Á, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6 - 7%/năm suốt nhiều thập kỷ. Nếu năm 1986, GDP bình quân đầu người chỉ khoảng 150 USD, thì đến đầu năm 2025 đã vượt 5.000 USD. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch rõ rệt: Tỉ trọng nông nghiệp giảm, công nghiệp và dịch vụ tăng mạnh. Việt Nam từ chỗ bị bao vây, cô lập đã trở thành điểm đến hấp dẫn của nhiều tập đoàn quốc tế như Samsung, Intel, LG, Toyota... Việt Nam còn hội nhập sâu rộng, thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 190 quốc gia, trở thành đối tác chiến lược của nhiều cường quốc, đồng thời là thành viên tích cực, có uy tín trong các vấn đề quốc tế và khu vực.

Sự tăng trưởng kinh tế đã cải thiện toàn diện đời sống nhân dân. Tỉ lệ nghèo đói từ trên 70% (1986) giảm xuống chỉ còn khoảng 2 - 3% (2023) theo chuẩn quốc gia, được Liên hợp quốc đánh giá là hình mẫu về giảm nghèo bền vững. Y tế, giáo dục, nhà ở... được cải thiện rõ rệt; mạng lưới y tế cơ sở rộng khắp; tuổi thọ trung bình đạt gần 75 tuổi - thuộc nhóm cao nhất ASEAN. Hệ thống giáo dục được mở rộng và ngày càng nâng cao chất lượng, góp phần bồi dưỡng nguồn nhân lực cho sự phát triển lâu dài của đất nước.

3. Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, thế và lực của Việt Nam không ngừng được củng cố, tạo nền tảng quan trọng cho những bước phát triển mạnh mẽ hơn trong tương lai. Kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định nhiều năm liền, được đánh giá là một trong những nền kinh tế mới nổi năng động nhất châu Á. Việt Nam đã trở thành trung tâm sản xuất - xuất khẩu lớn về điện tử, dệt may, nông sản... Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng hoàn thiện, phát huy hiệu quả của nhiều thành phần kinh tế. Năm 2024, quy mô GDP đạt 476,3 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu gần 406 tỷ USD. Đáng chú ý, cộng đồng doanh nghiệp tư nhân ngày càng lớn mạnh, khẳng định vai trò trụ cột của nền kinh tế, với nhiều thương hiệu đã vươn ra toàn cầu như Vingroup, THACO Group, FPT, Vietjet, Hòa Phát... Theo các chuyên gia, nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện đã có thể làm chủ công nghệ trong các lĩnh vực hiện đại như metro, đường sắt cao tốc, cầu vượt sông... mà không còn phụ thuộc nhiều vào nước ngoài.

Về nguồn nhân lực, với hơn 100 triệu dân, Việt Nam là quốc gia đông dân thứ ba ASEAN. Lực lượng lao động trẻ, cần cù, có trình độ ngày càng cao; giáo dục, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo được đầu tư mạnh mẽ. Cùng với đó, Việt Nam chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông, đô thị thông minh, chuyển đổi số, đặc biệt là xây dựng nền hành chính điện tử, kinh tế số, xã hội số trên phạm vi toàn quốc.

Có thể khẳng định, sau 80 năm kể từ ngày lập quốc, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện, xứng đáng tự hào. Và như lời dạy sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ tiếp tục là động lực đưa Việt Nam vươn lên phát triển hùng cường, giàu đẹp trong kỷ nguyên mới.

Phan Thế Hải

Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/dai-doan-ket-dong-luc-dua-viet-nam-vuon-minh-trong-ky-nguyen-moi-715028.html