Đảm bảo bình đẳng giới trong hòa giải tại cơ sở

Ngay từ khi bắt tay vào nghiên cứu, xây dựng Luật Hòa giải ở cơ sở, Bộ Tư pháp đã coi trọng và đặt vấn đề bình đẳng giới trong Luật hòa giải ở cơ sở là cần thiết với mục đích tạo điều kiện để mọi cá nhân, không phân biệt nam hay nữ có cơ hội như nhau trong việc sử dụng hòa giải ở cơ sở giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp xảy ra.

Đầy đủ văn bản pháp luật

Một điểm khác biệt trong Luật Hòa giải tại cơ sở là đưa vấn đề bình đẳng giới vào nguyên tắc hoạt động hòa giải. Khoản 5 Điều 4 quy định nguyên tắc bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở. Theo đó, Luật Hòa giải ở cơ sở có tính giới,thể hiện sự bình đẳng giới, quy định chung về giới cho các hòa giải viên, các bên là thành viên gia đình hoặc cá nhân tham gia hòa giải, không có sự phân biệt đối xử về giới, mọi người đều có thể tham gia hòa giải và được hòa giải.

Nguyên tắc này được thể hiện trong các quy định đối với hòa giải viên, tổ trưởng tổ hòa giải. Về quyền và nghĩa vụ của hòa giải viên, theo quy định tại Điều 9, Điều 10 của Luật, tất cả các hòa giải viên không phân biệt nam, nữ đều có quyền thực hiện các hoạt động hòa giải, được bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ; được hưởng thù lao theo vụ, việc, được khen thưởng…đồng thời tất cả các hòa giải viên đều có nghĩa vụ thực hiện hòa giải khi có căn cứ quy định tại Luật, tuân thủ các nguyên tắc hòa giải…

Hòa giải viên nữ trong thành phần tổ hòa giải đã góp phần hiệu quả trong việc bảo đảm cho nguyên tắc bình đẳng giới

Hòa giải viên nữ trong thành phần tổ hòa giải đã góp phần hiệu quả trong việc bảo đảm cho nguyên tắc bình đẳng giới

Để bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới trong tổ chức của tổ hòa giải ở cơ sở, theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở, mỗi tổ hòa giải có từ 3 hòa giải viên trở lên, trong đó có hòa giải viên nữ. Tính hết tháng 12 năm 2020, cả nước có 89.824 tổ hòa giải với 547.764 hòa giải viên, trong đó có 152.715 hòa giải viên nữ, chiếm 28% trên tổng số hòa giải viên trên cả nước. Như vậy, tính trung bình, các tổ hòa giải có ít nhất 2 hòa giải viên là nữ. Trên thực tế, việc có hòa giải viên nữ trong thành phần tổ hòa giải đã góp phần hiệu quả trong việc bảo đảm cho nguyên tắc bình đẳng giới, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ trong hoạt động hòa giải các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh tại cộng đồng dân cư.

Các quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở về địa điểm, thời gian hòa giải, tiến hành hòa giải, hòa giải giữa các bên ở thôn, tổ dân phố khác nhau, kết thúc hòa giải, thực hiện thỏa thuận hòa giải thành, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện thỏa thuận hòa giải thành, hòa giải không thành đều thể hiện sự trung tính về giới, không có sự phân biệt, ưu tiên vì lý do giới tính.

Đáp ứng tốt yêu cầu thực tiễn hòa giải

Trong thời gian qua, công tác hòa giải ở cơ sở đã có những đóng góp tích cực trong việc bảo đảm bình đẳng giới và bảo vệ quyền của phụ nữ. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của 63 tỉnh, TP trực thuộc trung ương trên cả nước (chủ yếu do hòa giải vụ việc bạo lực gia đình chỉ là một phần trong tiêu chí chung về các vụ việc về hôn nhân và gia đình của biểu mẫu thống kê về công tác hòa giải ở cơ sở, việc ghi chép Sổ theo dõi công tác hòa giải ở cơ sở chưa được đầy đủ…) thì từ năm 2014 đến hết năm 2018, hòa giải viên ở cơ sở đã tiến hành hòa giải 26.771 vụ việc liên quan đến bạo lực gia đình, hòa giải thành 22.293 vụ việc.

Năm 2020, hòa giải viên ở cơ sở đã tiếp nhận 128.977 vụ việc, trong đó, hòa giải thành 101.899 vụ việc. Trong đó, số vụ việc mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình chiếm 1/3 tổng số vụ việc tiếp nhận hòa giải. Các vụ việc hòa giải không thành liên quan đến tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình chỉ chiếm khoảng 6% (8.261 vụ việc). Các vụ việc tiến hành hòa giải đã bảo đảm được thực hiện đúng quy định pháp luật, không xâm phạm các quyền cơ bản của con người, của phụ nữ và trẻ em và đúng đạo lý, qua đó phát huy ưu thế, tác động tích cực của biện pháp hòa giải ở cơ sở, hạn chế sai sót, sơ xuất đẩy vụ việc thành phức tạp.

Nội dung vụ việc bạo lực gia đình chủ yếu liên quan đến các mâu thuẫn trong cuộc sống như khó khăn về kinh tế, nợ nần tạo áp lực căng thẳng, bế tắc trong cuộc sống, hoặc chồng cờ bạc, nghiện rượu, không chí thú làm ăn dẫn đến người vợ bị bạo lực, một số trường hợp do mâu thuẫn tình cảm dẫn đến nghi ngờ nhau... Quá trình tiếp nhận vụ việc, nếu không thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở, các tổ hòa giải cũng đã hướng dẫn các bên tranh chấp đến cơ quan có thẩm quyền yêu cầu giải quyết nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên.

Luật Bình đẳng giới được Quốc hội thông quan năm 2006 có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2007. Đây là một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất quy định về chính sách bình đẳng giới của Nhà nước ta, quy định nam, nữ có quyền bình đẳng như nhau trong mọi lĩnh vực và Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho việc thực hiện bình đẳng giới. Điều 6 Luật Bình đẳng giới đưa ra các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới để làm cơ sở cho các cơ quan chức năng bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật.

Anh Hùng

Nguồn PL&XH: https://phapluatxahoi.kinhtedothi.vn/dam-bao-binh-dang-gioi-trong-hoa-giai-tai-co-so-247668.html