Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Phát huy truyền thống cách mạng, hun đúc khát vọng phát triển

Quảng Ngãi - mảnh đất 'địa linh nhân kiệt', nơi hội tụ và tỏa sáng truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất, sáng tạo trong đấu tranh và xây dựng. Từ những năm đầu của cách mạng Việt Nam, nhân dân các dân tộc tỉnh Quảng Ngãi đã đứng lên cùng cả nước chống ách áp bức, giành độc lập, tự do, góp phần viết nên những trang sử vàng chói lọi.

NGUYỄN ĐỨC TUY - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh

Tự hào truyền thống cách mạng

Trong cao trào cách mạng 1930 - 1931, Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi vừa mới thành lập đã nhanh chóng bắt nhịp với cao trào cách mạng chung của cả nước, phát động và tổ chức thắng lợi phong trào “chia lửa với Xô viết Nghệ Tĩnh”, mà đỉnh cao là ngày 8/10/1930, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo nhân dân tổ chức cuộc mít tinh, bao vây chiếm huyện đường Đức Phổ.

Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Nguyễn Đức Tuy gặp gỡ người dân xã Vạn Tường tại Trung tâm Phục vụ hành chính công xã. Ảnh: THANH NHỊ

Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Nguyễn Đức Tuy gặp gỡ người dân xã Vạn Tường tại Trung tâm Phục vụ hành chính công xã. Ảnh: THANH NHỊ

Trong những năm 1932 - 1935, Đảng bộ tỉnh đã vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh do chính sách đàn áp, khủng bố tàn bạo của thực dân Pháp gây ra để tiếp tục lãnh đạo các tầng lớp nhân dân đấu tranh, củng cố và phát triển phong trào cách mạng. Đảng bộ tỉnh được Xứ ủy Trung kỳ chọn làm trung tâm kết nối phong trào cách mạng các tỉnh từ Quảng Nam đến Khánh Hòa và có thời gian Đảng bộ tỉnh đã được giao nhiệm vụ của Xứ ủy Trung kỳ.

Trong phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ những năm 1936 - 1939, Đảng bộ tỉnh tổ chức được nhiều hoạt động nổi bật, tỏ rõ khả năng tập hợp, vận động quần chúng đấu tranh công khai, trực diện với kẻ thù. Trong đó, nổi bật chính là phong trào Nước xu của đồng bào Hrê (ở các huyện Ba Tơ, Sơn Hà, Sơn Tây, Minh Long), đồng bào Ba Na, Xơ Đăng, Gié - Triêng (ở các huyện Đăk Glei, Đăk Tô, Tu Mơ Rông, Kon Plông) và phong trào lập làng chiến đấu ở xã Xốp do già làng A Mét lãnh đạo.

Các phong trào đó đều có sự liên hệ, đoàn kết, gắn bó giữa các dân tộc trong cộng đồng. Nhân dân các dân tộc trên địa bàn đã liên kết với nhau cùng bố phòng, rào đường, cắm chông bảo vệ làng; phục kích, vây bắt các đồn binh của địch; đánh tiêu diệt các toán địch đi lùng, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Tại xã Xốp, cả xã thực hiện làng không nhà trống, mang lúa gạo, trâu bò vào rừng, quyết tâm đánh địch lâu dài...

"

Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Quảng Ngãi phải phát huy hơn nữa truyền thống lịch sử cách mạng kiên cường, nuôi dưỡng khát vọng phát triển, khơi dậy tinh thần sáng tạo, tận tâm cống hiến.

Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh NGUYỄN ĐỨC TUY

Từ khi thực hiện chủ trương chuyển hướng chiến lược được Đảng ta đề ra tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5/1941), Đảng bộ tỉnh có những bước phát triển vượt bậc trong nhận thức các mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng. Cũng trong thời điểm quan trọng này, Đảng bộ tỉnh tiếp tục được các tỉnh bạn từ Quảng Bình đến Khánh Hòa chọn làm trung tâm cho phong trào cách mạng của vùng.

Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng bộ tỉnh đã phát huy cao độ tinh thần chủ động, sáng tạo, với ý chí quyết tâm cao, đề ra các chủ trương đúng đắn, sử dụng linh hoạt các phương pháp cách mạng, lãnh đạo nhân dân chớp thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền từ ngày 14/8 đến ngày 16/8/1945, trở thành một trong những địa phương giành được chính quyền sớm nhất cả nước.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), Quảng Ngãi là vùng tự do, hậu phương vững chắc cho các tỉnh Liên khu 5 và của cả nước. Tháng 10/1951, Liên Khu ủy 5 quyết định thành lập Mặt trận Miền Tây, bao gồm toàn bộ tỉnh Kon Tum và 4 huyện miền núi Ba Tơ, Minh Long, Sơn Hà, Trà Bồng (Quảng Ngãi cũ). Mặt trận Miền Tây hoạt động đến ngày Hiệp định Giơnevơ được ký kết (7/1954). Đây là thời kỳ đỉnh cao của tình đoàn kết, chiến đấu của Đảng bộ, quân và nhân dân 2 tỉnh Quảng Ngãi, Kon Tum cũ.

Từ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Mặt trận Miền Tây, quân và dân 2 tỉnh đã đánh bại cuộc hành quân La-tê-rít (5/1952), kế hoạch Át lăng (1953 - 1954) của thực dân Pháp, đỉnh cao là chiến dịch Bắc Tây Nguyên, tỉnh Kon Tum được giải phóng hoàn toàn (2/1954). Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi đã làm tròn nhiệm vụ: Đánh thắng các cuộc lấn chiếm của địch, bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám, kịp thời chi viện cho các chiến trường trong Liên khu 5, Tây Nguyên, Nam bộ, Hạ Lào và đông bắc Campuchia.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quảng Ngãi là một trong những chiến trường ác liệt, nơi diễn ra các trận quyết chiến chiến lược. Đảng bộ tỉnh và nhân dân các dân tộc trên địa bàn đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, lập nhiều chiến công oanh liệt.

Tiêu biểu là Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi (1959), mở đầu phong trào Đồng Khởi ở miền Nam; Chiến thắng Ba Gia, Vạn Tường (1965), góp phần đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ; chiến dịch tấn công và nổi dậy Xuân - Hè 1972, đỉnh cao là chiến thắng Đắk Tô - Tân Cảnh, góp phần đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, buộc đế quốc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (1973), góp phần cùng cả nước đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Đồng hành cùng sự nghiệp đổi mới của đất nước

Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng bộ tỉnh đã nhanh chóng cụ thể hóa đường lối của Đảng thành những chương trình, kế hoạch hành động cụ thể. Từ một tỉnh hậu quả chiến tranh để lại nặng nề, kinh tế chậm phát triển, sản xuất kém hiệu quả, đời sống nhân dân khó khăn, phúc lợi xã hội hạn chế..., Quảng Ngãi đã vươn lên với nhiều dấu ấn quan trọng.

Trong nhiệm kỳ 2020 - 2025, tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) tăng bình quân 7,30%/năm, xếp hạng 10/34 tỉnh, thành phố trong cả nước. Thu nhập bình quân đầu người ước đạt 54,89 triệu đồng/người/năm, tăng bình quân 9,4%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng định hướng. Công nghiệp chế biến, chế tạo phát triển nhanh, tiếp tục là động lực tăng trưởng chính. Nông nghiệp có bước chuyển mạnh theo hướng hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao. Một số sản phẩm đã từng bước thâm nhập và được đón nhận tại một số thị trường quốc tế có tiêu chuẩn cao, nhất là các sản phẩm từ sâm Ngọc Linh và dược liệu.

Cảng nước sâu Dung Quất là lợi thế để Quảng Ngãi hấp dẫn nhà đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp nặng, xuất nhập khẩu. Ảnh: MINH THU

Cảng nước sâu Dung Quất là lợi thế để Quảng Ngãi hấp dẫn nhà đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp nặng, xuất nhập khẩu. Ảnh: MINH THU

Khu Kinh tế Dung Quất, KKT Cửa khẩu Quốc tế Bờ Y và các KCN, cụm công nghiệp được quan tâm hoàn thiện cơ sở hạ tầng, thu hút đầu tư. Giá trị sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,7%/năm. Bản sắc văn hóa được giữ gìn, phát huy; đời sống vật chất và tinh thần của người dân, chất lượng giáo dục, y tế ngày càng được nâng cao; khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, thông tin, truyền thông và báo chí, chuyển đổi số được triển khai tích cực. Đồng thời, thực hiện hiệu quả, kịp thời các chính sách an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững.

Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng các cấp, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được chỉ đạo thực hiện quyết liệt. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền được tăng cường; nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội được đổi mới. Khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố, lòng tin của nhân dân đối với Đảng ngày càng được nâng lên.

Khát vọng phát triển toàn diện, hài hòa và bền vững

Thực hiện Nghị quyết số 202/2025/QH15, ngày 12/6/2025 của Quốc hội, tỉnh Quảng Ngãi mới (sau khi sáp nhập) không chỉ mở rộng về địa lý, mà còn gia tăng sức mạnh nhờ hội tụ ba vùng sinh thái: Biển đảo, đồng bằng và cao nguyên. Trong đó, Lý Sơn, Măng Đen và Sa Huỳnh là 3 điểm sáng nổi bật, góp phần hiện thực hóa mục tiêu đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.

Để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế, Quảng Ngãi xác định hạ tầng là yếu tố then chốt. Đường biên giới trên bộ với hai nước bạn Lào, Campuchia và biên giới trên biển là điều kiện thuận lợi lớn cho việc mở rộng giao thương, phát triển, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức mới trong bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Đoàn viên, thanh niên chào cờ Tổ quốc tại Cột mốc ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia, ở xã Bờ Y. Ảnh: ĐẮC VINH

Đoàn viên, thanh niên chào cờ Tổ quốc tại Cột mốc ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia, ở xã Bờ Y. Ảnh: ĐẮC VINH

Trước những thời cơ, thách thức nói trên, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Quảng Ngãi phải phát huy hơn nữa truyền thống lịch sử cách mạng kiên cường, nuôi dưỡng khát vọng phát triển, khơi dậy tinh thần sáng tạo, tận tâm cống hiến. Đồng thời, quyết tâm không lùi bước trước khó khăn, xóa bỏ mọi rào cản và sự khác biệt, chung tay xây dựng tỉnh Quảng Ngãi ngày càng phát triển nhanh và bền vững, phấn đấu đến năm 2030 trở thành tỉnh khá, tạo cơ sở, nền tảng để cùng cả nước tiến bước vững chắc vào kỷ nguyên phát triển thịnh vượng của dân tộc Việt Nam.

Nguồn Quảng Ngãi: https://baoquangngai.vn/dang-bo-tinh-quang-ngai-phat-huy-truyen-thong-cach-mang-hun-duc-khat-vong-phat-trien-56387.htm