Đảng kiến tạo đổi mới công tác dân tộc, tôn giáo

Tư tưởng Hồ Chí Minh là ánh sáng soi đường cho toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Người khẳng định: 'Công tác dân tộc, tôn giáo là vấn đề chiến lược, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta'.

Trong thời đại hội nhập toàn diện và chuyển đổi số sâu rộng, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Củng cố trận địa tư tưởng, xây dựng thế trận lòng dân và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là nền tảng để bảo vệ Đảng từ gốc, giữ nước từ dân”.

Lòng dân - niềm tin - bản sắc không chỉ là trụ cột phát triển mà còn là thành trì bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Từ Đại hội 13 đến nay, Đảng xác định rõ: đổi mới phương thức lãnh đạo là khâu đột phá chiến lược; công tác dân tộc, tôn giáo không chỉ là “mặt trận mềm nhưng chiến lược” mà còn là hệ điều tiết xã hội, tư tưởng, văn hóa cho sự nghiệp phát triển bền vững.

Tầm nhìn lý luận, kiến tạo định hướng chiến lược

Từ Cương lĩnh đầu tiên năm 1930 đến Nghị quyết số 57/2024, Đảng luôn nhất quán quan điểm: công tác dân tộc, tôn giáo là bộ phận hữu cơ của đường lối cách mạng. Lý luận xuyên suốt này đã được cụ thể hóa bằng nhiều văn kiện - như Văn kiện Đại hội 13, Kết luận 65, các chương trình mục tiêu quốc gia, và gần đây nhất là Nghị quyết 57 - khẳng định tính chiến lược trong đổi mới, phát triển và phòng ngừa rủi ro xã hội từ gốc.

Đảng lãnh đạo toàn diện thông qua các tổ chức cơ sở, hệ thống chính trị ở cơ sở, đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số, chức sắc tôn giáo - lực lượng nòng cốt tôn giáo, người có uy tín trong cộng đồng. Đây chính là hệ thống "radar chính trị" vừa bám dân - hiểu dân - vì dân, vừa là cơ chế cảnh báo sớm, phát hiện sớm những nguy cơ xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Chính sách gặp gỡ cuộc sống, lan tỏa niềm tin

Triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã tạo ra hiệu ứng tích cực trên các phương diện: hạ tầng - sinh kế - an sinh - bản sắc.

Theo Kết quả Điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 dân tộc thiểu số năm 2024 do Tổng cục Thống kê thực hiện năm 2024, ước tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số còn 16,57% (giảm mạnh so với 28,83% năm 2019); tỷ lệ cận nghèo còn 10,74%. Tuy nhiên, các dân tộc rất ít người như Mông, La Hủ, Chứt... vẫn còn tỷ lệ nghèo trên 20%, đặt ra yêu cầu chuyển từ hỗ trợ thuần túy sang phát triển bền vững gắn với chuyển đổi số và bảo tồn giá trị văn hóa.

Các tỉnh như Hà Giang, Sơn La, Gia Lai đã mạnh dạn ứng dụng chuyển đổi số, phát triển OCOP, du lịch bản địa, nông nghiệp hữu cơ. Việc này không chỉ tạo sinh kế mà còn khơi dậy niềm tin của đồng bào vào chính sách. Chính quyền không áp đặt mà đồng hành, người dân không thụ động mà làm chủ, chính là biểu hiện rõ nét của tư duy "kiến tạo phát triển".

Thực tiễn cho thấy ở cấp xã, nhiều địa phương đã linh hoạt vận dụng chính sách theo cách "làm thật - hiệu quả thật". Như tại xã Pù Nhi (Mường Lát, Thanh Hóa), chính quyền xã đã chủ động lập nhóm "cán bộ đồng hành" cùng hộ nghèo triển khai trồng dược liệu dưới tán rừng, gắn với chính sách hỗ trợ sinh kế theo Quyết định 1719/QĐ-TTg. Mô hình được Trung ương Hội Nông dân đánh giá là điểm sáng giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2024.

Trong quá trình triển khai các Nghị quyết lớn như 120/2020/QH14 hay Chương trình mục tiêu quốc gia, nhiều địa phương còn gặp vướng mắc về phân bổ ngân sách, thiếu hướng dẫn đồng bộ từ các bộ, ngành liên quan. Do đó, vai trò điều phối chiến lược và giám sát thực thi của Bộ Dân tộc và Tôn giáo cần được củng cố, đồng thời thúc đẩy cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ với Bộ Tài chính, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Cơ sở đảm bảo - mô hình phát huy tinh thần dân tộc

Các mô hình thực tiễn khẳng định vai trò hạt nhân của tổ chức Đảng, sự sát dân của cán bộ và sự chủ động của đồng bào dân tộc, tôn giáo. Tiêu biểu như chi bộ "bốn tốt"ở bản vùng cao tỉnh Điện Biên; mô hình cán bộ bám dân ở xã Mường Hoong (Kon Tum); tổ tự quản chùa Khmer ở An Giang; truyền thông dân tộc bằng tiếng bản địa tại Cà Mau.

Đặc biệt, các mô hình phát triển kinh tế gắn bảo tồn văn hóa bản địa như bản Khâu Đấng (Bắc Kạn), làng Chênh Vênh (Quảng Trị) - nơi du lịch cộng đồng, sản phẩm OCOP, trang phục và kiến trúc truyền thống được bảo tồn và phát huy - đã thể hiện rõ hiệu quả của việc chuyển hóa tư tưởng Đảng thành hành động thực tiễn.

Vai trò của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ngày càng rõ nét: không chỉ đại diện tiếng nói đồng bào, mà còn là cầu nối chính trị - văn hóa giữa Đảng và Nhân dân.

Ứng xử chủ động, ngăn ngừa từ gốc những mối nguy mới

Trong bối cảnh hội nhập và công nghệ lan rộng, các thế lực phản động lợi dụng không gian mạng, vấn đề tôn giáo, dân tộc để kích động "tự trị mềm", "tự quyết bản địa". Các vụ việc như tà đạo Dương Văn Mình tại vùng đồng bào Mông (Cao Bằng, Hà Giang), vụ tấn công vũ trang tại Đắk Lắk năm 2023, vụ nhà sư chùa Đại Thọ (Vĩnh Long) hay hoạt động lợi dụng, khiếu kiện tại Trà Vinh, Sóc Trăng - là minh chứng điển hình.

Để ứng xử chủ động cần xây dựng "trận địa tư tưởng số" với sự tham gia của báo chí chính thống, trí thức, chức sắc tôn giáo - lực lượng nòng cốt tôn giáo, người có uy tín trong cộng đồng và lực lượng cán bộ địa phương. Quan trọng hơn là nắm chắc tình hình từ xa - từ cơ sở, kết hợp dân vận chính trị - pháp lý - truyền thông tích hợp. Việc phản bác phải đi trước một bước, bằng thông tin xác thực, thuyết phục và mang tính văn hóa - tâm linh đúng mực.

Để kiến tạo thế trận lòng dân có 8 trụ cột phát triển bền vững trong kỷ nguyên số.

Thứ nhất là lãnh đạo truyền cảm - cán bộ bám dân: chuyển từ tư duy quản lý sang kiến tạo, lựa chọn cán bộ hiểu địa bàn, có khả năng tổng kết lý luận và hành động hiệu quả.

Hai là báo chí số hóa - phản bác kịp thời: xây dựng hệ sinh thái truyền thông dân tộc - tôn giáo hiện đại, chủ động phản bác xuyên tạc trên nền tảng số.

Ba là sinh kế văn hóa - dân làm chủ: phát triển OCOP, du lịch cộng đồng, hỗ trợ làm nhà ở, phát huy vai trò chức sắc trong xây dựng đời sống mới.

Bốn là tư tưởng phòng thủ - an ninh mềm: nắm chắc diễn biến tư tưởng, ứng phó linh hoạt với mọi hình thức tuyên truyền chống phá.

Năm là thể chế linh hoạt - chính sách theo dân: triển khai hiệu quả các chính sách lớn như Nghị quyết 120/2020 của Quốc hội, quyết định 920 của Thủ tướng, Nghị quyết 57.

Sáu là ngoại giao tôn giáo - tầm nhìn khu vực: kết nối Phật giáo Bắc tông, Nam tông với cộng đồng ASEAN, phát huy vai trò ngoại giao nhân dân.

Bảy là nghị quyết dẫn đường - bước đi chiến lược: đề xuất Bộ Chính trị ban hành nghị quyết chuyên đề mới về công tác dân tộc, tôn giáo.

Tám là chỉ số chính sách - cách mạng quản trị: xây dựng bộ chỉ số đo lường chính sách khách quan, cập nhật theo thực tế, hỗ trợ điều tiết vĩ mô.

Đáng lưu ý, hiện tượng "tự trị mềm" không còn manh nha mà đã có biểu hiện rõ tại một số vùng như Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Ví dụ, vụ việc nhóm người lôi kéo tín đồ tách khỏi Giáo hội Phật giáo Việt Nam ở chùa Đại Thọ (Vĩnh Long) dưới danh nghĩa "bảo vệ bản sắc tôn giáo Khmer" là một chỉ dấu cảnh báo. Hay tại Trà Vinh, một số phần tử lợi dụng danh nghĩa "cộng đồng tôn giáo truyền thống" để kiến nghị đòi đất và quyền tự quyết.

Trong bối cảnh đó, cần gấp rút hoàn thiện hệ sinh thái số liên ngành về dân tộc - tôn giáo, bao gồm cơ sở dữ liệu số hóa về tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, cán bộ dân tộc thiểu số, các mô hình tự quản hiệu quả. Mục tiêu là chủ động giám sát chính sách, phát hiện sớm mầm mống cực đoan và phục vụ quản trị số trong thời đại chuyển đổi.

Cần thiết kế Bộ chỉ số quốc gia về công tác dân tộc, tôn giáo - tương tự như PAPI, SIPAS - giúp lượng hóa mức độ hài lòng, hiệu quả triển khai chính sách, và mức độ lan tỏa chính sách đến vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đây là công cụ phản ánh khách quan và tạo áp lực cải cách chính sách theo hướng lấy dân làm gốc.

Trong chiến lược hội nhập, Việt Nam cần khẳng định vai trò "ngoại giao tôn giáo" với ASEAN và tiểu vùng Mekong. Phật giáo Nam tông Khmer là cầu nối văn hóa - tín ngưỡng quan trọng để Việt Nam giao lưu, hợp tác và thể hiện vai trò điều phối hòa bình khu vực.

Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: "Giữ Đảng từ gốc, giữ nước từ dân". Công tác dân tộc, tôn giáo vì thế cần trở thành trụ cột trong chiến lược phòng thủ tư tưởng từ sớm, từ xa. Xây dựng niềm tin chính trị - giá trị gốc rễ của thế trận lòng dân phải bắt đầu từ việc nâng cao năng lực hệ thống chính trị cơ sở và cán bộ dân tộc có tư duy hệ thống, số hóa và hành động.

Về mặt lý luận, công tác dân tộc, tôn giáo không chỉ là "mặt trận mềm nhưng chiến lược" mà còn là cấu phần của hệ thống điều tiết xã hội phi chính thức (informal governance), đóng vai trò giữ gìn bản sắc, ổn định tâm thức và kiểm soát hành vi cộng đồng từ gốc. Cách tiếp cận này phù hợp với lý thuyết "an ninh mềm" (soft security) trong quản trị quốc gia hiện đại.

Trong hệ tư tưởng Hồ Chí Minh, "lấy dân làm gốc" không chỉ là chiến lược vận động, mà còn là phương thức thiết lập trật tự xã hội từ dưới lên. Việc huy động đội ngũ người có uy tín trong cộng đồng, chức sắc tôn giáo - lực lượng nòng cốt tôn giáo, cán bộ dân tộc thiểu số - chính là biểu hiện thực hành tư tưởng ấy ở tầng vi mô.

So sánh với một số quốc gia như Lào, Thái Lan và Trung Quốc cho thấy Việt Nam có nền tảng ổn định chính trị nhờ vào cơ chế Đảng lãnh đạo toàn diện, nhưng thách thức cũng lớn hơn trong bảo vệ niềm tin chính trị - giá trị gốc rễ của thế trận lòng dân tại các vùng đồng bào đa tôn giáo, đa dân tộc. Do đó, Việt Nam cần phát triển bộ chỉ số điều hành chính sách dân tộc, tương tự như PAPI, nhưng tích hợp yếu tố "bản sắc - niềm tin - ổn định tư tưởng". Đồng thời cần thiết lập khung thể chế để người dân, chức sắc, người uy tín có thể phản hồi chính sách, giám sát thực thi ở cơ sở. Đây là biểu hiện của dân chủ xã hội chủ nghĩa, thể hiện rõ tính ưu việt của Đảng ta trong xây dựng thế trận lòng dân.

Bên cạnh đó cần xem xét hoàn thiện lý luận về "trận địa tư tưởng số - không gian tác chiến chính trị mới của Đảng" - một khái niệm mới đang hình thành, đòi hỏi vừa công nghệ, vừa nhân văn, vừa tư tưởng. Trận địa này không thể giao khoán cho truyền thông, mà cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị - tổ chức Đảng ở cơ sở.

Những đề xuất chiến lược

Công tác dân tộc, tôn giáo là "mặt trận mềm nhưng chiến lược" nhưng mang ý nghĩa chiến lược đặc biệt trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và củng cố thế trận lòng dân. Đổi mới phương thức lãnh đạo không chỉ là yêu cầu thích ứng với thời đại, mà là bước đi kiến tạo thế và lực mới cho đất nước.

Bộ Dân tộc và Tôn giáo đóng vai trò cơ quan tham mưu chiến lược - cầu nối giữa thực tiễn đời sống vùng dân tộc, tôn giáo với hoạch định chính sách của Đảng, Nhà nước. Báo chí, đặc biệt là Báo VietnamNet, có thể trở thành nền tảng chính luận số hóa lan tỏa niềm tin chính trị - giá trị gốc rễ của thế trận lòng dân, truyền cảm hứng phát triển.

Thượng tọa Lý Hùng (dân tộc Khmer) chia sẻ: “Tôi không chỉ là vị tăng giảng giáo lý nhà Phật mà còn là cầu nối giữa Đảng với bà con Phật tử”. Hay như ông Giàng A Páo - Phó trưởng Công an xã Cát Thịnh (Yên Bái), người Mông - là hình mẫu cán bộ thấu hiểu dân, hành động cùng dân, lan tỏa niềm tin chính trị - giá trị gốc rễ của thế trận lòng dân, từng bước hóa giải mọi nghi kỵ, dựng lại niềm tin từ gốc.

Có 4 đề xuất đề nghị Trung ương: ban hành nghị quyết chuyên đề về hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc, tôn giáo; hoàn thiện hệ sinh thái số phục vụ công tác dân tộc - tôn giáo; phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số có tư duy số, năng lực hệ thống, bám trụ địa bàn chiến lược; sớm xây dựng bản đồ chính sách dân tộc - cơ sở dữ liệu dân tộc số liên ngành.

Bức tranh 2 chiều của công tác dân tộc và tôn giáo

5 kết quả nổi bật: 1. Tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào DTTS giảm mạnh từ 28,83% (2019) xuống còn 16,57% (2024); 2. Các mô hình OCOP, du lịch cộng đồng, chuyển đổi số phát triển mạnh tại nhiều địa phương; 3. Cán bộ dân tộc thiểu số giữ vị trí chủ chốt tại nhiều xã, huyện trọng điểm; 4. Truyền thông dân tộc - tôn giáo được số hóa, hiện đại hóa, bám sát định hướng tư tưởng; 5. Nhiều điểm nóng dân tộc - tôn giáo được kiểm soát hiệu quả, ổn định chính trị - xã hội được giữ vững.

5 thách thức cốt lõi: 1. Một số địa bàn còn tiềm ẩn bất ổn về khiếu kiện tôn giáo, tranh chấp đất đai; 2. Luận điệu "tự trị mềm", "tự quyết bản địa" lan rộng qua mạng xã hội và cộng đồng hải ngoại; 3. Thiếu cán bộ dân tộc thiểu số có tư duy công nghệ, hệ thống và khả năng làm việc trong môi trường đa văn hóa; 4. Hệ thống chính trị cơ sở ở một số nơi còn yếu, thiếu sức đề kháng tư tưởng và kỹ năng truyền thông chính trị; 5. Chưa có bộ công cụ đánh giá chính sách một cách khách quan, toàn diện, cập nhật theo diễn biến xã hội số.

Minh Dực

Nguồn VietnamNet: https://vietnamnet.vn/dang-kien-tao-doi-moi-cong-tac-dan-toc-ton-giao-2412082.html