Đàng Trong - Mầm sụp đổ trên những dòng tiền
Có thể có nhiều nguyên nhân dẫn đến khởi nghĩa và nổi dậy, như sưu cao thuế nặng, mất mùa đói kém, tham nhũng quan liêu... Khởi nghĩa Tây Sơn chống lại các chúa Nguyễn cũng không ngoại lệ. Nhưng, khuất lấp dưới nhiều nguyên nhân bề nổi, chính sách tiền tệ không được kiểm soát chặt chẽ kết hợp với khả năng quản lý yếu kém cũng là một yếu tố mang tính quyết định tạo nên những cuộc bể dâu.
Tiền đồng, tiền kẽm và lạm phát ở Đàng Trong
Năm 1746, chúa Nguyễn Phúc Khoát đề ra chính sách đúc tiền mới nhằm thay thế tiền đồng, do việc nhập đồng từ Trung Hoa và Nhật Bản bị sụt giảm nghiêm trọng.
“Đại Nam Thực Lục” chép: “[1746] Bắt đầu đúc tiền kẽm trắng... Chúa nghe lời, mở cục đúc tiền ở Lương Quán. Vành tiền và giữ để theo thể thức tiền Tường Phù nhà Tống. Lại nghiêm cấm đúc riêng. Từ đó tiền của lưu thông, công tư đều tiện. Sau lại đúc thêm tiền Thiên Minh thông bảo, pha lẫn kẽm xanh, vành lại mỏng, vật giá vì đó vụt cao lên”.
“Phủ Biên Tạp Lục” của Lê Quý Đôn chép: “Hai xứ Thuận Quảng không có mỏ đồng. Nước Nhật-bản thổ sản đồng đỏ. Mỗi năm có tàu người Nhật đến, họ Nguyễn mua mỗi 100 cân đồng giá cổ tiền (tiền cũ) 45 quan... Lâu ngày, những kẻ có quyền thế xin mở lò, đến hơn 100 lò đúc, tiền ấy gọi là Thiên minh thông bảo, nấu lẫn thứ thiếc xấu, ngày càng nhỏ và mỏng, nhân dân chê thứ tiền ấy không mua bán được”.
Trong cuốn “Việt Nam - lịch sử thời Tây Sơn”, nhà nghiên cứu Tạ Chí Đại Trường bình luận: “Đói kém bắt đầu từ năm 1768 vì một sự sai lầm về chính sách tiền tệ: tiền kẽm được tha hồ đúc từ vua chí dân gây nên tình trạng lạm phát khiến dân chúng mất tin tưởng, đua nhau với đám đúc tiền lậu mua lúa tích trữ, trong khi nhà giàu không dám tung gạo ra”.
Trong cuốn “Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn”, George Dutton cũng nhận định: “Không có mỏ đồng riêng, các chúa Nguyễn phải lệ thuộc vào kim loại nhập khẩu và vào đầu thế kỷ XVII, khi giá trị tiền đồng ở Nhật Bản và Trung Quốc tăng lên, lượng tiền đồng ở Đàng Trong giảm đi rất nhiều.... Nhiều người thích tích trữ lúa gạo hơn là bán lấy tiền kẽm và giá gạo tăng lên khi nguồn cung cấp giảm xuống, dẫn đến tình trạng thiếu lương thực một số nơi”.
Chúng ta thấy gì qua 4 đoạn trích trên?
Thứ nhất, việc đổi tiền đồng qua tiền kẽm trong khoảng thời gian đầu năm 1746 là do nguồn cung về đồng bị sụt giảm nghiêm trọng, lượng nhập khẩu đồng đã ngày càng thiếu hụt mà dân thì lại còn phá tiền để đem đi nấu làm đồ dùng (bằng đồng). Trong tình cảnh đó, việc cho đúc tiền kẽm là đúng đắn, với mục tiêu nhằm giảm tải cho nhu cầu về đồng đang quá lớn.
Thứ hai, tiền kẽm trắng ban đầu không gây nên xáo trộn quá lớn. Chúa Nguyễn lúc này mặc dù đã tăng lượng tiền lưu thông trên thị trường nhưng tác động của chính sách này vẫn trong mức chấp nhận được. Lí do là: (a) Khuôn khổ và hình dáng theo như tiền Tường-phù đời Tống, tiền kẽm trắng này lại “rất dày và bền, đem đốt cũng không gãy được”, do đó tạo cho người dân cảm giác tin tưởng; (b) Chúa Nguyễn “cấm đúc riêng”, kiểm soát tuyệt đối lượng tiền mới được phát hành; và (c) Lượng tiền mới xuất hiện trên thị trường không quá nhiều (cứ bỏ ra 8 quan tiền đồng để mua kẽm, cộng chi phí nhân công, củi lửa thì đúc được 20 quan tiền kẽm - trong khi tỷ giá quy đổi là 1 đồng tiền kẽm ăn 1 đồng tiền đồng. Như vậy, lượng tiền trên thị trường vào khoảng (20-8)/8 = 150% lượng tiền ban đầu).
Có thể thấy, trong giai đoạn phát hành tiền kẽm trắng, Chúa Nguyễn đã thành công hơn nhà Hồ khi đồng tiền mới này được dân chúng đón nhận và thị trường chưa phát sinh những ảnh hưởng quá tiêu cực.
Thứ ba, sự việc chỉ ngày càng xấu đi khi chính quyền trung ương buông lỏng quyền kiểm soát phát hành tiền. Những kẻ quyền thế lại được cho phép mở lò đúc tiền làm cho tiền kẽm mới tràn lan. Nhà Chúa vừa không kiểm soát được số lượng tiền mới, lại cũng không kiểm soát được chất lượng, khiến cho cảm nhận của người dân về giá trị của đồng tiền này tụt giảm đến mức từ chối giao dịch, nhiều khu vực kinh tế thậm chí quay về tình trạng hàng đổi hàng. Lạm phát lúc này tăng cao khi mà 3 đồng tiền kẽm xanh mới ăn được 1 đồng tiền đồng.
Nguy hại hơn, nền kinh tế đình trệ vì sự mất niềm tin của người dân vào tiền mới. Hệ quả tất yếu là việc tích trữ và giảm lưu thông các nhu yếu phẩm như gạo. Giá gạo tăng cộng với tâm lý tích trữ gạo đã khiến nhiều nơi thiếu lương thực, nạn đói bắt đầu xuất hiện.
Năm 1765, vị chúa thứ 9 - Nguyễn Phúc Thuần nối ngôi. Sự chuyên quyền của Trương Phúc Loan càng làm cho tình hình kinh tế của Đàng Trong đi xuống và mâu thuẫn xã hội bị đẩy lên gay gắt hơn.
“Đại Nam Thực Lục” chép lại phân tích của Ngô Thế Lân năm 1770: “Từ năm 1768 tới nay giá thóc cao vọt, nhân dân đói kém, không phải là thiếu thóc mà chính vì đồng tiền kẽm gây nên vậy”.
Rồi sau đó:
“Năm 1773, giặc Tây Sơn là Nguyễn Văn Nhạc nổi loạn, giữ thành Quy Nhơn.
Năm 1774, mùa đông, tháng 10, Thuận Hóa bị đói to, mỗi lẻ gạo trị giá một tiền, ngoài đường có xác chết đói, người nhà có khi ăn thịt nhau.
Quân Trịnh qua sông Gianh”.
Biến cố liên tục xảy ra. Bánh xe lịch sử của Đàng Trong đã rẽ đến những khúc ngoặt quan trọng nhất.
Đàng Ngoài có phát động chiến tranh kinh tế?
Sau 2 đợt đúc tiền mới (tiền kẽm trắng và tiền Thiên Minh thông bảo có pha lẫn kẽm xanh), những hệ lụy đã bắt đầu lộ ra. “Phủ Biên Tạp Lục” ghi lựa chọn của chính quyền Đàng Trong là “ra lệnh đúc tiền đồng mới, có ý bỏ hẳn tiền kẽm”. Như vậy, Đàng Trong xuất hiện đợt đúc tiền lần thứ ba: quay lại với tiền đồng. Nhưng kết quả của chính sách này là gì? Lê Quý Đôn cho hay: “Số đồng thì nhiều mà đúc ra tiền không được mấy tí và số tiền ấy cũng theo thuyền ở Thanh, Nghệ, Sơn Nam mà biến hết”.
Chi tiết này đặt ra nhiều nghi vấn. Dân Đàng Trong vốn bài xích tiền kẽm xanh, như vậy đúng lý mà nói, khi chúa Nguyễn phát hành tiền đồng trở lại, nó phải được lưu thông rộng rãi. Nhưng tại sao lượng tiền đồng trên thị trường Đàng Trong vẫn rất ít? Vậy số tiền đó đi đâu?
Rất có khả năng nó đã bị thu mua bởi chính quyền Đàng Ngoài, bởi đội thuyền buôn ở Thanh, Nghệ, Sơn Nam. Đàng Ngoài có thể đã dùng hàng hóa (chẳng hạn sản vật Bắc Hà như cánh kiến, trầu, cau, thuốc lá...) để đổi sạch số tiền đồng vừa mới xuất hiện này nhằm phá hủy nỗ lực bình ổn thị trường của Đàng Trong. Khi tiền đồng mới đúc vẫn không xuất hiện trên thị trường đủ nhiều, tiền kẽm vẫn tràn lan bởi các lò đúc tư nhân thì Đàng Trong vẫn sẽ tiếp tục phải đối mặt với sự đình trệ và tích trữ nhu yếu phẩm, bởi thị trường vẫn thiếu vắng một loại tiền tệ được người dân tin tưởng sử dụng.
Tình hình kinh tế Đàng Trong ngày càng xấu đi. Đơn cử năm 1771, số lượng thuyền buôn từ nước ngoài cập cảng Thuận - Hóa là 16 thuyền, số thuế thu được lên tới 30.000 quan thì tới năm 1773 số thuyền đã sụt giảm một nửa, chỉ còn 8 thuyền và số thuế thu được là 3.200 quan. Thuế không thu được vì tàu đến ít, hàng hóa trao đổi gần như không có vì dân chỉ trữ lúa gạo, buôn bán trao đổi bằng phương pháp hàng đổi hàng hoặc dùng vàng, bạc.
Chính vào lúc này, chúa Trịnh tung quả đấm thép kinh tế, dùng số tiền đồng thu gom và tích trữ được trước khi Đàng Trong đổi sang tiền kẽm đi thu mua lúa gạo hàng hóa của Đàng Trong cùng với việc đó dùng hàng hóa của mình để đổi lượng tiền đồng chúa Nguyễn mới đúc ra và thu gom về. Đến lượt mình, với lượng tiền đồng vừa thu được, các thương lái Đàng Ngoài sẽ tiếp tục dong buồm vào Nam để thu mua lúa gạo chuyển ra Bắc hòng tiếp tục khoét sâu vào vấn nạn khan hiếm lương thực.
Dĩ nhiên, trên đây vẫn chỉ là một giả thuyết, một hướng nghi vấn. Hướng nghi vấn ấy vẫn cần được bổ sung bằng các công trình nghiên cứu nghiêm túc của giới sử học nước nhà, để có được một kết luận xác đáng.
Tuy vậy, điều khó có thể phủ nhận vẫn ở đó: Sai lầm trong phát triển và quản lý kinh tế sẽ là mũi nhọn chĩa vào yết hầu của bất cứ quốc gia nào, trong bất kỳ thời đại nào. Đàng Trong với việc phụ thuộc nhập khẩu kim loại, thể chế bị lũng đoạn, gian thương tham nhũng, sưu cao thuế nặng, đã hoàn toàn bị đánh gục chỉ trong một khoảng thời gian hơn 30 năm. Bên trong thì có Tây Sơn với thành phần quá nửa là dân đói ăn bị bức thuế cao. Bên ngoài thì bị chúa Trịnh dùng nhiều đòn tổng hợp chính trị - kinh tế lũng đoạn và công phá. Để rồi, khi “tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ”, việc quân Trịnh vượt qua được sông Gianh - lũy Thầy chiếm Phú Xuân là điều tất yếu.
Chiến tranh không và sẽ không bao giờ chỉ bó gọn trong phạm vi của những hành động quân sự đơn thuần...
Nguyễn Chi An