Dành cả đời đi chữa những vết thương thời hậu chiến
Gặp ở ngoài đời, mấy ai nghĩ người đàn ông sinh năm Đinh Hợi, dáng nhỏ, lành lành, trên đầu là chiếc mũ Bere 'tứ thời', có cái tên nghe hiền như tên con gái, lại được nhắc đến với danh xưng 'Người trả lại tên cho những đồng đội' hay 'Người chữa lành những vết thương thời hậu chiến'.
Năm 1967, vừa tròn 20 tuổi, chàng trai Nguyễn Minh Chuyên lên đường ra trận. Những năm tháng hòa mình vào cuộc chiến đấu khốc liệt đã sớm gieo vào lòng anh bộ đội trẻ những dấu ấn sâu đậm. Và như một ý thức, những khi rảnh rỗi giữa hai trận đánh là Minh Chuyên gác súng lại để cầm cây bút. Anh đã ghi chép lại những gì mà anh đã được chứng kiến và anh đã gửi những bài viết mộc mạc của mình qua đường giao liên đến Đài Tiếng nói Việt Nam (TNVN). Cứ như thế, các tác phẩm: “Lá thư mật”; “Đường qua dốc đỏ”; “Sau một trận đánh”; “Người chọn cái chết”… lần lượt ra đời ngay giữa chiến trường khói lửa.
Về lại quê hương làng Thọ Lộc, xã Minh Khai, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình sau 9 năm ra trận, điều đầu tiên mà Minh Chuyên gặp cũng chẳng giống ai, anh đã lặng người đi khi trước mắt anh là những “phận người”, đó là những con người nếu không mang thương tích chiến tranh thì là những con người đã và đang chịu đựng nỗi đau do chiến tranh đưa đến. Và truyện ký "Thủ tục làm người còn sống” in tháng 5 năm 1988 trên Báo Văn nghệ như một “phát súng mở màn” cho một đề tài mà Minh Chuyên đeo đuổi.
Câu chuyện về “Liệt sĩ” Trần Quyết Định trong “Thủ tục làm người còn sống” được khơi nguồn từ một người bạn, anh thương binh Đoàn Duyến, anh Duyến gặp Minh Chuyên và nói “Mày từng là thằng lính, toàn đi viết văn, viết báo ở đâu đâu, thằng Định người xã mình oan khuất đã 10 năm nay sao không viết mà kêu cho nó. Hay là mày “trơn lông, mượt da” nên quên hết những thằng đồng đội rồi sao?”. Cú hích đó thực sự làm Minh Chuyên “sực tỉnh” và thế là Minh Chuyên “dấn thân” vào đề tài hậu chiến với một nhận thức có trách nhiệm.
Nhưng khi Minh Chuyên “bắt tay” vào việc thì nẩy sinh nhiều khó khăn. Anh tìm đến các cơ quan chức năng để “dâng đơn” kêu cho “liệt sĩ” Trần Quyết Định thì đều nhận được nếu không là khất lần thì cũng là đùn đẩy nhưng Minh Chuyên quyết không chịu “đầu hàng”, anh tìm gặp những đồng đội, tìm về nơi anh Định bị thương và kiên quyết đề nghị các cơ quan chức năng cùng hợp tác. Và khi truyện ký “Thủ tục làm người còn sống” được in báo đã giống như một “hồi chuông” làm thức tỉnh bao người đang mải mê với cuộc mưu sinh. Bốn tháng sau khi bài báo ra đời “Liệt sĩ” Trần Quyết Định đã được “làm người còn sống”.
Từ “động lực” đó, nhà báo Minh Chuyên chợt nhận ra, trong trái tim mình vẫn day dứt khôn nguôi về những đồng đội dưới khói lửa dạo nào. Lần lượt, từng bài bút, từng truyện ký của Minh Chuyên xuất hiện làm lay động xúc cảm người đương thời, như “Má Giáo”; “Nghị lực”; “Chiến tranh đã đi qua”; “Quãng đời huyền thoại”; “Nỗi oan trần thế”; “Người lang thang không cô đơn”… những tác phẩm văn học nhưng đầy ắp tính báo chí bởi đó là những con người thật với số phận thật rất đang cần được trợ giúp.
Nhớ hồi bút ký “Người lang thang không cô đơn” anh viết về anh thương binh Nguyễn Đình Thức được in báo. Hồi đó, địa phương đã có những phản ứng quyết liệt chỉ bởi một điều “Câu chuyện đã bôi nhọ quê hương” và “không thể chấp nhận được”. Thế là Minh Chuyên phải “lánh đi” giữa lúc kinh tế gia đình anh “tứ bề túng thiếu”. Hồi đó nhà thơ Trần Ninh Hồ (Báo Văn nghệ) đã gặp cánh nhà văn trẻ chúng tôi, ông bảo: “Các cậu nên có tiếng nói không chỉ ủng hộ thằng Chuyên mà phải là bảo vệ nó”. Rồi sự thực bao giờ cũng là sự thực.
“Hậu chiến tranh” đó là đề tài mà Minh Chuyên đeo đuổi, khi trở thành nhà văn, nhà viết kịch rồi thành đạo diễn phim tài liệu truyền hình, ở lĩnh vực nào, nhà văn, đạo diễn Minh Chuyên đều “đăm đắm” với đề tài đó. Ông “tận dụng” khá thành công “sức mạnh” của sân khấu, của báo chí nói chung và của truyền hình nói riêng để nói lên “tiếng nói chung” – Tiếng nói làm xoa dịu nỗi đau chiến tranh và nỗi đau sinh ra bởi chiến tranh.
Loạt tác phẩm của ông về “câu chuyện da cam” từng làm người đọc, người xem xúc động. Đó là nỗi đau dai dẳng đời cha sang đời con và có khi kéo dài vài đời sau đó. Đó là sự khủng khiếp mà mọi người cần chung tay giúp đỡ, chung tay đòi quyền công bằng. Hình ảnh bé Thịnh và bé Thoa trong “Đứa con màu da thú” hay nhân vật Lại Thị Hà trong “Chiếc cũi trần gian” mà Minh Chuyên đã “công bố” được dư luận quan tâm, được nhiều người hảo tâm mở lòng trợ giúp.
“Tiếng lòng” của Minh Chuyên đã thực sự góp phần không nhỏ với xã hội. Thái độ của người sáng tạo là làm “sống lại” quá khứ, dĩ nhiên không phải để rồi sợ hãi, để lảng tránh mà mục đích đạt tới là để mọi người từ cảm thương, lên án thành đồng lòng lên tiếng đấu tranh cho quyền lợi chính đáng, như hậu quả của “chất độc màu da cam” chẳng hạn.
Câu chuyện này giờ đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Nó không chỉ “hành hạ” người dân Việt Nam mà còn trực tiếp “hành hạ” những người Mỹ tham gia cuộc chiến tranh Việt Nam. Câu chuyện này phải được nhân loại tiến bộ có tiếng nói chung. Câu chuyện này buộc những người có trách nhiệm phải hoàn thành trách nhiệm.
Những bài báo, phim tài liệu truyền hình về “chất độc màu da cam” do nhà văn, đạo diễn Minh Chuyên truyền tải suốt những năm tháng qua thực sự là tiếng nói mạnh mẽ, là cầu nối giữa sự thực với công lý. Những tác phẩm như “Cha con người lính”; “Di họa chiến tranh” là những minh chứng hùng hồn được Minh Chuyên “đưa ra ánh sáng”.
Để có được những trang viết, những thước phim tài liệu, nhà văn, đạo diễn Minh Chuyên không chỉ vượt qua “rào cản”, vượt qua “sự mặc cảm” mà còn phải vượt qua hiểm nguy nữa. Ông từng lặn lội trở lại nơi chiến địa xưa để xác minh, để tìm nhân chứng, để có tư liệu chính xác. Những lần đi đó nếu không có tấm lòng với đồng đội, với quá khứ thì không thể thực hiện được. Rừng thiêng nước độc và bao vất vả đều không ngăn được bước chân người đi “Chữa lành những vết thương thời hậu chiến”.
Cũng theo đề tài “chất độc màu da cam” này nhà văn, đạo diễn Minh Chuyên đã góp phần làm xích lại quan hệ Việt-Mỹ và làm thức tỉnh nhiều cựu binh Mỹ từng là thủ phạm và trớ trêu thay lại cũng là nạn nhân. Đó là các cựu binh Mỹ như Homer Stedy, Wayne Karlin, Paud Reed, Kevin Bowen… Những cựu binh “thủ phạm kiêm nạn nhân” này đã thức tỉnh và quay lại Việt Nam để “thú tội”. Và quan trọng hơn là khi đã thấy tận mắt hậu quả mà họ đã gieo rắc cho người Việt Nam và cho cả chính bản thân họ thì họ đã “như một nhân chứng hùng hồn” đấu tranh với chính phủ Mỹ để đòi lại sự công bằng cho các nạn nhân.
Và nhà văn, đạo diễn Minh Chuyên đã “đấu tranh” bằng lối đi riêng của mình, một lối đi “chông gai” cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng; ông vừa là nhân chứng, vừa là người làm chứng và vừa là người được gửi gắm. Nếu không có một thái độ chân thành, mạnh mẽ và dám lao vào “cuộc chiến” mới lắm khó khăn này hẳn khó có thể thành công.
Hơn 30 năm với hơn 300 tác phẩm viết, 225 tác phẩm truyền hình và 5 tác phẩm sân khấu cũng với chỉ một đề tài trong khoảng không gian trải dài khắp cả nước và khoảng thời gian được tính bằng nhiều thế hệ. “Cái “tạng” này chắc chỉ có mỗi mình bác làm được vậy bác làm cách nào để duy trì và để có nguồn tư liệu?” - Tôi hỏi. Nhà văn, đạo diễn Minh Chuyên lặng im vài giây rồi thong thả trả lời câu hỏi của tôi: “Đó không phải là cái “tạng” của người cầm bút mà đó là sự thể hiện về những điều chúng ta không được phép quên đi. Tôi nguyện cả đời theo đuổi đề tài này”.
Trở về đời thường, trong khi nhiều người khác lo toan cho cuộc sống riêng, chăm bẵm cho đời sống riêng thì Minh Chuyên lại theo đuổi “được lo cho đồng đội và gia đình đồng đội”. Nét trân quý này đã thúc giục ông tiếp tục đi, tiếp tục lắng nghe, tiếp tục gặp gỡ và tiếp tục chuyển hóa thành tác phẩm. “Tác động xã hội từ những tác phẩm văn học hay truyền hình đã đem lại cho bác nhiều giải thưởng”. Nhà văn, đạo diễn Minh Chuyên ngẩng mặt lên: “Không có giải thưởng nào bằng nụ cười của những người mà tôi đã gặp”.