Dành hơn 88.600 tỷ đồng để thực hiện mục tiêu nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2026 - 2030

Quốc hội thống nhất dành 88.635 tỷ đồng trong giai đoạn 2026-2030 để thực hiện mục tiêu bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe ban đầu, phòng bệnh từ sớm, từ xa, ngay tại cơ sở, hạn chế bệnh tật...

Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan báo cáo tiếp thu, giải trình trước Quốc hội. Ảnh: Quochoi.vn.

Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan báo cáo tiếp thu, giải trình trước Quốc hội. Ảnh: Quochoi.vn.

Sáng 11/12, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 – 2035.

Tổng nguồn vốn thực hiện giai đoạn 2026-2030 là 88.635 tỷ đồng, trong đó, vốn ngân sách Trung ương 68.000 tỷ đồng; vốn ngân sách địa phương 20.041 tỷ đồng; nguồn vốn khác dự kiến 594 tỷ đồng.

Căn cứ kết quả thực hiện của Chương trình giai đoạn 2026-2030, Chính phủ trình Quốc hội quyết định nguồn lực thực hiện Chương trình giai đoạn 2031-2035.

Chương trình dành cho mọi người dân Việt Nam, trong đó ưu tiên các đối tượng ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, miền núi, biên giới, hải đảo; người có công với cách mạng, người cao tuổi, bà mẹ, trẻ em, các cặp vợ chồng và cá nhân trong độ tuổi sinh đẻ, người khuyết tật, người di cư, lao động các khu công nghiệp và các đối tượng ưu tiên khác theo quy định của Chính phủ.

Chương trình đặt mục tiêu bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe ban đầu, phòng bệnh từ sớm, từ xa, ngay tại cơ sở, hạn chế bệnh tật; gia tăng tỷ lệ sinh, phấn đấu tỷ số giới tính khi sinh đạt mức cân bằng tự nhiên, thích ứng với già hóa dân số, nâng cao chất lượng dân số.

Đồng thời, tăng cường chăm sóc cho các nhóm dễ bị tổn thương; góp phần nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của Nhân dân, xây dựng một nước Việt Nam khỏe mạnh.

Chương trình dự kiến góp phần thực hiện mục tiêu tỷ lệ xã, phường, đặc khu đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã là 90% vào năm 2030 và 95% đến năm 2035. Phấn đấu tỷ lệ người dân được lập sổ sức khỏe điện tử và quản lý sức khỏe theo vòng đời đạt 100% từ năm 2030.

Dự kiến đến năm 2030, tỷ lệ Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) các tỉnh, thành phố đủ năng lực xét nghiệm tác nhân, kháng nguyên, kháng thể các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, chất lượng nước sạch, vệ sinh trường học theo quy định của Bộ Y tế đạt 100%.

Tỷ lệ trạm y tế xã, phường, đặc khu trên toàn quốc triển khai thực hiện dự phòng, quản lý, điều trị một số bệnh không lây nhiễm theo hướng dẫn của Bộ Y tế đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035.

Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi đến năm 2030 giảm xuống dưới 15%, và đến năm 2035 giảm xuống dưới 13%. Tỷ suất sinh thô đến năm 2030 tăng thêm 0,5‰ so với năm 2025, và đến năm 2035 tăng thêm 0,5‰ so với năm 2030.

Tỷ số giới tính khi sinh đến năm 2030 giảm xuống dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống, và đến năm 2035 giảm xuống dưới 107 bé trai/100 bé gái sinh ra sống.

Tỷ lệ cặp nam, nữ được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn đạt 90% vào năm 2030 và 95% vào năm 2035; 70% phụ nữ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh tật bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030, và 90% vào năm 2035; 90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 loại bệnh bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030, và đạt 95% vào năm 2035.

Số lượng người dễ bị tổn thương được tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tại các cơ sở chăm sóc xã hội đến năm 2030 tăng thêm 70% so với năm 2025, và đến năm 2035 tăng thêm 90% so với năm 2030.

Toàn cảnh phiên họp. Ảnh: Quochoi.vn.

Toàn cảnh phiên họp. Ảnh: Quochoi.vn.

Báo cáo tiếp thu, giải trình trước Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan, cho biết hệ thống mục tiêu và chỉ tiêu của Chương trình được xây dựng trên cơ sở đánh giá đầy đủ thực trạng sức khỏe nhân dân, năng lực hệ thống y tế, nhu cầu thực tế của các địa phương và khả năng cân đối nguồn lực của ngân sách trung ương, ngân sách địa phương.

Chương trình được chia thành hai giai đoạn 2026 đến 2030 và 2031 đến 2035 nhằm bảo đảm lộ trình thực hiện phù hợp, tránh dồn áp lực nguồn lực trong thời gian ngắn.

Các chỉ tiêu cụ thể được xác định theo lộ trình tăng dần, gắn với tiến độ hoàn thiện thể chế, cơ chế tài chính, cơ chế tổ chức thực hiện và năng lực cán bộ ở từng cấp. Trong quá trình triển khai, Chính phủ sẽ tiếp tục rà soát, điều chỉnh linh hoạt các cơ chế chính sách, kết hợp với huy động nguồn lực xã hội hóa nhằm từng bước thu hẹp khoảng cách giữa mục tiêu đề ra và khả năng thực hiện trong thực tế.

Về việc xác định tổng mức, nguồn vốn và khả năng cân đối vốn, đã khái toán các hoạt động của Chương trình được xác định dựa trên định mức chi, định mức kỹ thuật đã được hướng dẫn bằng các văn bản của các Bộ, ngành liên quan. Bộ Tài chính đã có thông báo dự kiến đề xuất cân đối bố trí kinh phí nguồn ngân sách Trung ương giai đoạn 2026 - 2030 để triển khai thực hiện Chương trình.

Kiểm toán nhà nước cũng đã có ý kiến về nguồn vốn được xác định phù hợp với quy mô, mục tiêu Chương trình và tương đối phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách Nhà nước. Cơ cấu nguồn vốn được thiết kế hợp lý, đảm bảo đầu tư đồng bộ từ cơ sở vật chất, trang thiết bị đến việc vận hành duy trì dịch vụ.

Phúc Minh

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/danh-hon-88600-ty-dong-de-thuc-hien-muc-tieu-nang-cao-suc-khoe-nhan-dan-giai-doan-2026-2030.htm