'Đánh thức' tiềm năng kinh tế vùng Trung du và miền núi phía Bắc

Có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển, lại được sự quan tâm 'đặc biệt' của Đảng và Nhà nước, tuy nhiên cho đến nay Trung du và miền núi phía Bắc vẫn là vùng khó khăn nhất của cả nước. Đó là thông tin được đưa ra tại Diễn đàn Đầu tư phát triển vùng Trung du và miền núi phía Bắc do Ban Kinh tế Trung ương; UBND tỉnh Phú Thọ và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức chiều nay (20/4).

Nhiều tiềm năng…

Phát biểu tại Diễn đàn, PGS, TS Nguyễn Hồng Sơn – Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương – cho biết: Trung du và miền núi phía Bắc có diện tích khoảng 100.965 km2, chiếm 28,6% diện tích cả nước với tổng dân số 13.853.190 người, trong đó có khoảng 30 dân tộc đang sinh sống.

Các đại biểu tham dự Diễn đàn

Các đại biểu tham dự Diễn đàn

Đây cũng là vùng có nhiều tiềm năng và lợi thế cho phát triển bền vững như: Nằm trên hành lang kinh tế Bắc – Nam, thuộc hợp tác Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS), là một trong những cửa ngõ thông ra biển và kết nối với ASEAN của các tỉnh miền Tây Trung Quốc. Đặc biệt, đây là vùng được Đảng và Nhà nước quan tâm, dành những chính sách ưu tiên đầu tư phát triển những năm qua.

Cụ thể, Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX ngày 1/7/2004 về “Phương hướng phát triển kinh tế-xã hội và đảm bảo quốc phòng an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2010” và Kết luận số 26-KL/TW ngày 2/8/2012 về Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 37-NQ-TW, ngày 1/7/2004 của Bộ Chính trị khóa IX nhằm đẩy mạnh kinh tế-xã hội và đảm bảo quốc phòng an ninh Vùng Trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2010” đã mở đường cho việc ban hành các cơ chế, chính sách đặc thù, nhằm tạo môi trường thuận lợi để thu hút và phân bổ các nguồn lực cho phát triển kinh tế-xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh của vùng.

Sau 17 năm thực hiện Nghị quyết số 37-NQ-TW, bộ mặt của vùng đã có nhiều thay đổi, kinh tế-xã hội có bước phát triển mới, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao, quốc phòng, an ninh được tăng cường. Quy mô kinh tế được mở rộng, năm 2018 GRDP của vùng gấp 11,2 lần so với năm 2004, chiếm khoảng 9,73% GDP cả nước. Trong giai đoạn 2004-2018 kinh tế các tỉnh trong vùng tăng trưởng liên tục và tương đối nhanh, đạt mức gần 10%, cao hơn trung bình toàn quốc trong cùng giai đoạn.

Toàn cảnh Diễn đàn

Toàn cảnh Diễn đàn

Đặc biệt, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, những năm gần đây, một số địa phương trong vùng có quy mô GRDP cao như Thái Nguyên 125,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 18,2% tổng GRDP toàn vùng; Bắc Giang 121,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 17,6%, do đây là địa phương thu hút được một lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài thời gian qua…

TS Vũ Tiến Lộc – Chủ tịch VCCI – thông tin: Rất nhiều địa phương trong Vùng Trung du và miền núi phía Bắc thời gian qua đã có sự cải thiện tích cực hơn trong thu hút đầu tư và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Điển hình trong số đó phải kể đến Tuyên Quang – đây là điểm sáng trong phong trào Cà phê Doanh nhân của phía Bắc, hay như Lào Cai cũng là một địa phương đi đầu trong thực hiện sáng kiến cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp.

…chưa được đánh thức

Dù đã đạt được những tín hiệu tích cực trong phát triển kinh tế-xã hội, nhưng các đại biểu vẫn cho rằng, phát triển của Vùng Trung du miền núi phía Bắc vẫn còn nhiều hạn chế, rất nhiều tiềm năng, lợi thế của vùng chưa được khai thác triệt để, chưa tạo động lực thúc đẩy kinh tế-xã hội trong vùng phát triển.

PGS, TS Nguyễn Hồng Sơn – Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương – nhận định: “Đây vẫn là vùng nghèo và khó khăn nhất của cả nước. Thu nhập bình quân đầu người thấp và khoảng cách về thu nhập so với cả nước đang có xu hướng doãng ra. Tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước (2018), trng đó tỷ lệ hộ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số ở mức cao. Nhiều chỉ số về văn hóa, xã hội đạt mức thấp hơn trung bình toàn quốc…”

Cùng với đó, nhiều ý kiến cho rằng phát triển của các địa phương trong Vùng Trung du và miền núi phía Bắc không đồng đều, các địa phương trong vùng đều chưa cân đối được ngân sách. Số lượng doanh nghiệp hoạt động trong vùng thấp nhất trong cả nước, trong đó đa phần là doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ. Quy hoạch và phát triển các khu công nghiệp còn chưa mang tính vùng, chưa đồng bộ với quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư nông thôn, hạ tầng kinh tế-xã hội, đang tạo sức ép lớn đối với môi trường. Tỷ lệ lấp đầy các khu, cụm công nghiệp thấp. Hầu hết các sản phẩm công nghiệp chế biến vẫn ở dạng thô và gia công. Cơ cấu lại ngành nông nghiệp và đổi mới mô hình sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, hiệu quả thấp. Các mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị nông sản giữa doanh nghiệp và nông dân chưa nhiều. Du lịch phát triển chưa bền vững, hiệu quả chưa cao. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, nhất là kết nối hạ tầng giao thông, năng lực cạnh tranh của vùng chậm được cải thiện.

Các diễn giả tham gia phiên thảo luận

Các diễn giả tham gia phiên thảo luận

Hoàn thiện hạ tầng và đẩy mạnh liên kết vùng

Mặc dù có rất nhiều lợi thế để phát triển, song nhiều ý kiến đưa ra tại Diễn đàn đều cho rằng, hạ tầng kinh tế-xã hội, hạ tầng giao thông của Vùng Trung du và miền núi phía Bắc còn kém phát triển và đây là một trong những “nút thắt” làm ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế và thu hút đầu tư của địa phương.

Liên quan đến nội dung này, ông Nguyễn Hồng Long – Phó trưởng Ban chuyên trách Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp Trung ương – đánh giá: Đây là khu vực có địa hình phức tạp, bị chia cắt do có rất nhiều núi cao. Cơ sở hạ tầng còn hạn chế, mới có 2 tuyến cao tốc từ Hà Nội đi Lào Cai và Lạng Sơn, có 2 sân bay thì sân bay Vân Đồn mới đi vào hoạt động, còn sân bay Điện Biên Phủ chỉ có máy bay hạng nhẹ hạ cánh được, nếu so với vùng Tây Nguyên diện tích chỉ bằng ½ và dân số chưa bằng ½ mà có tới 3 sân bay… khiến việc đi lại trong vùng càng khó khăn.

Để khắc phục vấn đề hạ tầng, ông Nguyễn Văn Sơn – Chủ tịch UBND tỉnh Tuyên Quang – kiến nghị: Chính phủ và các bộ, ngành trung ương ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống mạng lưới giao thông kết nối các tỉnh trong vùng theo hướng hiện đại, đồng bộ, nhằm rút ngắn thời gian di chuyển, vận chuyển hàng hóa, hành khách. Đồng thời, các địa phương trong vùng cũng cần chủ động hợp tác, phối hợp, hỗ trợ nhau trong việc đầu tư cải tạo, nâng cấp và mở các tuyến giao thông kết nối, nhằm thu hút đầu tư phát triển. Trong đó, quan tâm hỗ trợ tỉnh Tuyên Quang và Phú Thọ đầu tư hoàn thành đường cao tốc Tuyên Quang – Phú Thọ kết nối với đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai; bổ sung quy hoạch và đầu tư xây dựng tuyến đường cao tốc Tuyên Quang – Hà Giang, kết nối với Cửa khẩu quốc tế Thanh Thủy, Hà Giang…

Bên cạnh chú trọng hoàn thiện hạ tầng giao thông, một số ý kiến tại Diễn đàn cũng nhận định, các địa phương trong vùng cần đẩy mạnh liên kết nhằm phát triển kinh tế. Trong đó, liên kết ở đây không giới hạn ở một lĩnh vực mà cần được đẩy mạnh ở nhiều lĩnh vực và cần được triển khai đồng bộ ở tất cả các địa phương, có vậy mới tạo sức lan tỏa mạnh mẽ.

Trong đó, về lĩnh vực du lịch, bà Nguyễn Thị Thanh Hương – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch – cho rằng: Các địa phương trong vùng cần đẩy mạnh liên kết trong phát triển sản phẩm, công tác quảng bá xúc tiến du lịch, liên kết trong đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật…

“Liên kết là một yêu cầu khách quan, là xu thế tất yếu, là trải nghiệm mà các vùng, miền đã đúc kết từ thực tiễn nhiều năm trước” – Bà Nguyễn Thị Thanh Hương nhấn mạnh.

Vùng Trung du và miền núi phía Bắc bao gồm 14 tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lao Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Bắc Giang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Phú Thọ, Yên Bái, Hòa Bình.

Nguyễn Hòa

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/danh-thuc-tiem-nang-kinh-te-vung-trung-du-va-mien-nui-phia-bac-155617.html