Dấu ấn 'bình minh' của nền mỹ thuật cách mạng

Chỉ trong chưa đầy hai năm sau ngày đất nước giành được độc lập (2-9-1945), mỹ thuật Việt Nam đã chuyển mình mạnh mẽ. Họa sĩ từ bỏ những chủ đề quen thuộc như thiếu nữ, phong cảnh để hòa vào mặt trận văn hóa tiến bộ. Giai đoạn 1945-1946 không chỉ là sự khởi đầu của mỹ thuật cách mạng mà còn đặt nền móng cho một dòng nghệ thuật đặc biệt trong quá trình gìn giữ độc lập và xây dựng đất nước.

Khí thế ngút ngàn lan tỏa đến từng nét vẽ

Giai đoạn 1945-1946 có thể được xem là giai đoạn “bình minh” của nền mỹ thuật cách mạng Việt Nam. Những biến chuyển dồn dập trong hai năm đã buộc người nghệ sĩ không thể đứng ngoài thời cuộc. Họ sống như những chiến sĩ, dùng bút vẽ như một thứ vũ khí để tham gia vào công cuộc kiến thiết quốc gia. Họ vẽ không chỉ để ghi lại hiện thực, mà để thay đổi hiện thực.

Sau ngày 2-9-1945, trong khí thế cả nước sục sôi bảo vệ chính quyền non trẻ, giới mỹ thuật Việt Nam như bùng nổ. Họa sĩ miệt mài ngày đêm trong các phòng vẽ của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (nay là Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam), cho ra đời hàng loạt tranh cổ động, tranh tường, áp phích khổ lớn nhằm tuyên truyền, kêu gọi đoàn kết, chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Tranh “Nước Việt Nam của người Việt Nam” của Trần Văn Cẩn phủ kín cả tòa nhà địa ốc ngân hàng; tranh “Toàn dân đấu tranh cho độc lập thống nhất Việt Nam” của Nguyễn Sáng giăng ngang phố lớn.

 Bác Hồ dự khai mạc Triển lãm văn hóa tháng 10-1945. Ảnh do Bảo tàng Cách mạng Việt Nam cung cấp

Bác Hồ dự khai mạc Triển lãm văn hóa tháng 10-1945. Ảnh do Bảo tàng Cách mạng Việt Nam cung cấp

Nhiều họa sĩ như Phan Thông, Thân Trọng Sự, Mai Văn Nam tham gia vẽ tranh tường để truyền đi thông điệp cách mạng trên từng góc phố. Cùng lúc đó, những phòng tranh khắc gỗ màu do Lê Phả và Huỳnh Văn Thuận thực hiện, cổ động cho Phong trào "Bình dân học vụ" và tăng gia sản xuất... Đó không chỉ là những tác phẩm nghệ thuật mà là biểu tượng chính trị đầy khí phách.

Triển lãm văn hóa tháng 10-1945 tại nhà Khai Trí Tiến Đức bên hồ Hoàn Kiếm được xem là một trong những sự kiện mỹ thuật lớn đầu tiên sau Ngày Độc lập. Ngoài tác phẩm của các họa sĩ Đông Dương như Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Văn Tỵ, triển lãm còn trưng bày tranh dân gian quý hiếm, khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc. Bác Hồ đã đến dự và để lại câu nói khiến giới mỹ thuật chuyển biến mạnh: “Các chú vẽ nhiều thiếu nữ khỏa thân và vẽ nhiều hoa cũng đẹp, nhưng đẹp trên cao. Sao các chú không vẽ cái đẹp dưới đất, chung quanh ta...”.

Triển lãm tranh Tết 1946 và Triển lãm tranh cổ động nhân Ngày Quốc tế Lao động 1-5-1946 với những đề tài mới như chống áp bức, xây dựng đất nước, bài trừ mê tín... xuất hiện trong tranh của Phạm Văn Đôn, Lương Xuân Nhị, Trương Bính, Nguyễn Tiến Chung... Báo chí thời đó gọi đây là cuộc “đổi màu” quyết liệt trong hội họa, khi người nghệ sĩ chuyển từ ảo mộng sang hiện thực.

Triển lãm mỹ thuật toàn quốc tháng 8-1946 là sự kiện quy mô lớn, quy tụ số lượng lớn họa sĩ trong và ngoài nước, với đủ các chất liệu sơn dầu, lụa, khắc gỗ, sơn mài... Có cả sự góp mặt của các họa sĩ Việt kiều nổi tiếng: Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Vũ Cao Đàm, Lê Thị Lựu. Đề tài mang đậm tính thời sự: Kháng chiến, xây dựng chính quyền, bình dân học vụ, tuần lễ vàng... đã xác lập rõ nét dòng mỹ thuật cách mạng non trẻ nhưng đầy sinh lực.

Nếu thời Pháp thuộc, mỹ thuật Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của hội họa phương Tây, thiên về phong cảnh, tĩnh vật, thiếu nữ, thì từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tư duy sáng tác thay đổi hoàn toàn. Họa sĩ không còn “vẽ cái đẹp để ngắm” mà “vẽ cái đẹp để hành động”. Các tác phẩm như: “Bác Hồ làm việc ở Bắc Bộ phủ” (khắc gỗ-Tô Ngọc Vân), “Xuống đồng” (lụa-Trần Văn Cẩn), “Chợ Bờ” (sơn mài-Nguyễn Văn Tỵ), “Lớp bình dân” (bột màu-Dương Bích Liên), “Góc phố Hàng Bút” (khắc gỗ-Phạm Văn Đôn)... đều là minh chứng cho sự chuyển mình từ mỹ thuật vị nghệ thuật sang mỹ thuật vì con người, vì cách mạng.

Thời vàng son từ hào khí dân tộc

Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành một trong những hình tượng trung tâm và thiêng liêng nhất trong mỹ thuật giai đoạn này. Họa sĩ Tô Ngọc Vân đã có sự chuyển mình ngoạn mục khi thực hiện tranh “Bác Hồ làm việc ở Bắc Bộ phủ”. Đây là một trong những hình ảnh sớm nhất về Chủ tịch Hồ Chí Minh sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, được thể hiện trên 3 chất liệu: Sơn dầu, chì than và khắc gỗ, trong đó bản khắc gỗ mang đậm tính tuyên truyền và gần gũi với công chúng thời kỳ kháng chiến.

Hình ảnh Bác Hồ được khắc họa trọn vẹn trong tư thế làm việc giản dị, trang phục đơn sơ, toát lên vẻ gần gũi, khiêm nhường nhưng ẩn chứa trí tuệ lớn và tâm huyết với dân tộc. Đây chính là minh chứng rõ ràng cho vai trò của nghệ thuật trong việc khắc họa và lan tỏa lý tưởng cách mạng, đồng hành với công cuộc xây dựng quốc gia.

Nữ nghệ sĩ Nguyễn Thị Kim cũng đi vào lịch sử mỹ thuật với tượng chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh đầu tiên, đặt nền móng cho điêu khắc hiện đại. Họa sĩ Vũ Cao Đàm, sống tại Pháp, khi gặp Bác ở Hội nghị Fontainebleau năm 1946 đã thực hiện bức tượng chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng đồng mang khí chất Đông-Tây hòa quyện. Đặc biệt, họa sĩ Nguyễn Sáng đã sáng tác hai mẫu tem chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, một tại Hà Nội và một khi ông lên Việt Bắc vào năm 1946.

Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước ngày toàn quốc kháng chiến, không thể không ghi nhận những đóng góp quan trọng của một số họa sĩ tiên phong trong thiết kế mẫu giấy bạc và tem, một thể loại mỹ thuật đồ họa đặc biệt, phục vụ cho hệ thống tài chính và bưu chính của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa non trẻ. Bốn họa sĩ tiêu biểu có công đầu trong giai đoạn này gồm: Nguyễn Huyến (thiết kế tờ tiền mệnh giá 100 đồng), Nguyễn Văn Khanh (thiết kế tờ tiền mệnh giá 20 đồng), Nguyễn Đỗ Cung (thiết kế tờ tiền mệnh giá 10 đồng) và Mai Văn Hiến (thiết kế tờ tiền mệnh giá 5 đồng). Trong thời kỳ này và những năm tiếp theo, các họa sĩ Nguyễn Sáng, Bùi Trang Chước và Lê Phả tiếp tục thực hiện việc vẽ mẫu tiền và thiết kế tem tại Chiến khu Việt Bắc.

Có thể thấy, nghệ thuật đồ họa giữ vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, là công cụ thiết yếu phục vụ sự nghiệp cách mạng và xây dựng hình ảnh quốc gia mới độc lập. Tranh cổ động nở rộ, truyền tải thông điệp chính trị mạnh mẽ, cổ vũ tinh thần kháng chiến và ca ngợi độc lập dân tộc. Tranh minh họa, khắc gỗ, bút sắt trên báo chí giúp đưa hình ảnh cách mạng đến gần với quần chúng. Tem bưu chính-sản phẩm đồ họa nhà nước đầu tiên-thể hiện hình ảnh lãnh tụ, Quốc kỳ, nhân dân lao động, góp phần khẳng định bản sắc và chủ quyền quốc gia.

Từ chỗ nghệ thuật chủ yếu phục vụ cho tầng lớp tư sản, quan lại, hoặc bị chi phối bởi thị hiếu của giới thực dân (trong thời Pháp thuộc), các nghệ sĩ sau năm 1945 bắt đầu lấy nhân dân làm trung tâm. Cảm hứng sáng tác gắn chặt với tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, lý tưởng cách mạng và niềm tin vào chính quyền mới. Các họa sĩ đã không chọn lối thoát mỹ học mà đi thẳng vào hiện thực, sống và sáng tác như những chiến sĩ thực thụ. Đó là khoảnh khắc khi nghệ thuật không chỉ đẹp mà còn có ích. Không chỉ thăng hoa mà còn dấn thân. Một nền mỹ thuật đi trên mặt đất như chính lời Bác Hồ căn dặn, vững vàng đặt nền móng cho tương lai lâu dài của nghệ thuật nước nhà.

PGS, TS QUÁCH THỊ NGỌC AN, Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/80-nam-cach-mang-thang-tam-va-quoc-khanh-2-9/dau-an-binh-minh-cua-nen-my-thuat-cach-mang-843923