Đầu tư mạnh cho R&D để tăng trưởng bứt phá
Việt Nam cần chính sách mạnh mẽ để thúc đẩy đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D), yếu tố then chốt giúp tăng trưởng đột phá.
Thước đo năng lực đổi mới sáng tạo
Việt Nam đang trên hành trình chuyển từ mô hình kinh tế dựa vào lao động giá rẻ sang tăng trưởng bằng đổi mới sáng tạo. Trong tiến trình này, R&D giữ vai trò trọng yếu. Tuy nhiên, đầu tư cho R&D vẫn còn hạn chế, tỷ lệ chi tiêu thấp so với GDP và thiếu sự tham gia mạnh mẽ từ khu vực tư nhân.
Ngân hàng Thế giới (WB) thống kê, tỷ lệ chi R&D so với GDP của Việt Nam tăng từ 0,3% (năm 2013) lên 0,43% (năm 2021). Dù có tiến bộ, nhưng con số này vẫn thấp so với mức trung bình của nhiều quốc gia. Thách thức đặt ra là làm sao để Việt Nam bứt phá, vươn từ nhóm thu nhập trung bình thấp lên cao, trong khi R&D đã chứng minh là đòn bẩy quan trọng tại các quốc gia như Hàn Quốc, Israel.
Đến năm 2025, tổng đầu tư cho R&D của Việt Nam (từ cả ngân sách nhà nước và doanh nghiệp) vẫn chưa đạt 0,7% GDP, thấp hơn Thái Lan (1,1%) và Singapore (hơn 2%).
“Chi tiêu cho R&D của Việt Nam thấp hơn nhiều so với mức trung bình toàn cầu 2,4%. Nghị quyết 57-NQ/TW đặt mục tiêu đến năm 2030, tỷ lệ này đạt 2% GDP, trong đó xã hội đóng góp trên 60%”, ông Hoàng Minh, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết.
Theo báo cáo EY Việt Nam, Nghị quyết 57-NQ/TW đặt mục tiêu đến năm 2030, doanh nghiệp tư nhân sẽ đóng góp 60% trong mức 2% GDP đầu tư cho R&D, tương đương 9 tỷ USD. Tuy vậy, hiện ngân sách nhà nước vẫn chiếm 70-80% tổng đầu tư, khu vực tư nhân mới chỉ góp 20-30%.
Khoảng cách còn thể hiện rõ giữa các lĩnh vực. Ở công nghệ cao như trí tuệ nhân tạo (AI), sinh học, năng lượng tái tạo, phần lớn R&D do các tập đoàn nước ngoài như Samsung, Intel thực hiện. Trong khi đó, những ngành chiếm tỷ trọng lớn trong GDP như nông nghiệp, chế biến thực phẩm lại ít được đầu tư nghiên cứu, dẫn đến năng suất thấp, phụ thuộc nhập khẩu công nghệ.
“Doanh nghiệp công nghệ trong nước chi cho R&D còn rất ít. Trong khi nhiều công ty quốc tế duy trì 5-20% doanh thu cho R&D, thì ở Việt Nam số này thấp hơn nhiều”, ông Nguyễn Đạt, Phó tổng giám đốc Tập đoàn Viettel nhận xét.
Theo WB, hiện nay, tỷ lệ nhân lực R&D của Việt Nam chưa đến 10 người/10.000 dân, chỉ bằng 7,6% của Hàn Quốc, 13% của Pháp, 29,8% của Malaysia, 58% của Thái Lan. Đáng chú ý, hơn 84% nhân lực R&D tập trung ở khu vực nhà nước, khu vực ngoài nhà nước chỉ chiếm chưa đến 16%.
Hệ quả là, số bằng sáng chế của Việt Nam rất ít. Viettel - doanh nghiệp dẫn đầu cả nước, mới chỉ có khoảng 260 bằng sáng chế trong vài năm gần đây. Trong khi đó, riêng năm 2022, Samsung có hơn 24.000 và Huawei hơn 8.400 bằng sáng chế.
Ngoài ra, Việt Nam dù có lực lượng nhân lực chất lượng cao, nhưng thiếu chuyên gia tầm quốc tế trong các ngành chiến lược như bán dẫn, hàng không vũ trụ, lượng tử, AI… Hệ sinh thái khởi nghiệp công nghệ chưa đủ mạnh, thiếu cố vấn quốc tế và sự liên kết hiệu quả giữa Nhà nước - doanh nghiệp - viện trường. Nếu không nhanh chóng thay đổi, Việt Nam có nguy cơ tụt lại trong cuộc cạnh tranh công nghệ toàn cầu, khi các quốc gia đều coi R&D là chìa khóa cho sức mạnh kinh tế và an ninh quốc gia.
Nâng tỷ lệ đầu tư R&D
Để đạt mục tiêu chi R&D bằng 2% GDP vào năm 2030, nhiều chuyên gia và doanh nghiệp đề xuất chính sách tập trung vào cơ chế, hợp tác và nhân lực.
Tại Hàn Quốc, POSCO đầu tư khoảng 2 tỷ USD cho Đại học Khoa học và Công nghệ Pohang (POSTECH), trích 2% ngân sách R&D hàng năm cho nghiên cứu chung. Samsung từ năm 1997 đầu tư 50-100 triệu USD/năm cho Đại học Sungkyunkwan (SKKU), xây dựng trung tâm nghiên cứu và học bổng. Viện Khoa học - Công nghệ Hàn Quốc cũng hợp tác cùng Samsung để phát triển công nghệ bán dẫn và AI, có sự hỗ trợ mạnh mẽ của Chính phủ.
GS-TS. Lê Anh Tuấn, Chủ tịch Hội đồng Đại học Bách khoa Hà Nội hiến kế, Việt Nam đẩy mạnh áp dụng mô hình liên kết “3 nhà”: Nhà nước kiến tạo chính sách, định hướng chiến lược, đầu tư hạ tầng nghiên cứu, đặt hàng công nghệ; Viện, trường tạo tri thức mới, đào tạo nhân lực, phát triển công nghệ nền tảng; Doanh nghiệp kéo thị trường, sở hữu nguồn lực tài chính, tổ chức sản xuất và thương mại hóa sản phẩm.
Theo ông Tuấn, thương mại hóa là thước đo quan trọng của R&D: “Nghiên cứu chỉ có sức sống khi ra được thị trường. Vai trò Nhà nước và doanh nghiệp là đầu tư để hoàn thiện sản phẩm, ươm tạo và thị trường hóa công nghệ”, ông Tuấn nêu quan điểm.
Đại diện Viettel thì đề xuất xây dựng Quỹ đầu tư công nghệ chiến lược để hỗ trợ doanh nghiệp trong giai đoạn đầu, giúp hoàn thiện sản phẩm và tăng năng lực cạnh tranh quốc tế.
Ngoài ra, cần hình thành các viện nghiên cứu chiến lược tầm khu vực, gắn với doanh nghiệp lớn theo mô hình ba nhà. Khi Nhà nước giao nhiệm vụ công nghệ chiến lược, bắt buộc có sự phối hợp giữa viện, trường và doanh nghiệp, nhằm đảm bảo kết nối nghiên cứu - ứng dụng - thương mại hóa.
Chủ tịch EY Việt Nam, ông Trần Đình Cường cho rằng, để đạt mục tiêu đến năm 2030, đầu tư từ khối tư nhân vào R&D đạt 9 tỷ USD, Chính phủ cần chính sách ưu đãi quyết liệt như cắt giảm thủ tục hành chính, tăng ưu đãi thuế, hỗ trợ tài chính. “Các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản đã chi hàng tỷ USD hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư công nghệ cao. Việt Nam cũng cần dành khoảng 10-15 tỷ USD/năm cho R&D để khuyến khích tư nhân tham gia mạnh mẽ hơn”, ông Cường nói.
Thêm vào đó, một môi trường khuyến khích đổi mới sáng tạo, tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ và tạo điều kiện cho nhà khoa học tự do thử nghiệm, phát triển ý tưởng là nền tảng quan trọng. Nếu không xây dựng được hệ sinh thái cởi mở và hấp dẫn, Việt Nam sẽ khó thu hút các nhà khoa học giỏi trong và ngoài nước, cũng như nguồn vốn đầu tư quốc tế cho nghiên cứu công nghệ cao.
Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/dau-tu-manh-cho-rd-de-tang-truong-but-pha-d383760.html