Dấu vân tay không biết nói dối

Dấu vân tay của nguyên đơn trên tờ đơn xin chuyển nhượng, bán kết quả lao động, đầu tư của bị đơn đã chứng minh ý chí chuyển nhượng đất của nguyên đơn.

Bà Thái Thị L. kiện ông Lê Văn T. đòi 4.715 m2 đất ở huyện Cờ Đỏ, TP Cần Thơ mà gia đình bà đã cho ông T. thuê (cố) với giá 10 chỉ vàng 24K. Bà đồng ý trả lại cho ông T. số vàng này.

Tuy nhiên, ông T. khẳng định hai bên thực hiện một giao dịch duy nhất là chuyển nhượng đất. Bà L. là người giữ các hợp đồng chuyển nhượng. Các hợp đồng đều thể hiện ý chí của nguyên đơn là chuyển nhượng vĩnh viễn đất cho ông T.

Năm 1999, bà L. in dấu vân tay xác nhận chỗ “người nhượng” trong hồ sơ mà ông T. xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Các thủ tục gần hoàn tất nhưng ông không đủ tiền nộp thuế nên chưa được cấp giấy. Ông T. cung cấp tờ hợp đồng chuyển nhượng đất ruộng lập ngày 6-5-1993 và tờ sang nhượng đất lập ngày 6-11-1994 để chứng minh.

Xử sơ thẩm và phúc thẩm, TAND huyện Cờ Đỏ và TAND TP Cần Thơ đều bác yêu cầu của bà L. Ông T. có quyền thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.

Ngày 3-9-2020, VKSND Cấp cao tại TP.HCM kháng nghị giám đốc thẩm, đề nghị hủy cả hai bản án này để giải quyết lại.

Ủy ban Thẩm phán TAND Cấp cao tại TP.HCM mới đây mở phiên tòa giám đốc thẩm đã không chấp nhận kháng nghị này.

Theo Ủy ban Thẩm phán, bà L. khai cho thuê đất trong sáu năm nhưng khi quá thời hạn này lại không có khiếu nại hay tranh chấp trong một thời gian dài. Hơn nữa, hợp đồng chuyển nhượng giữa các bên được xác lập năm 1992, đến ngày 6-5-1993, các bên lập giấy tờ sang nhượng (giấy tay).

Mặc dù về hình thức, giao dịch chưa tuân thủ quy định pháp luật nhưng bà L. đã nhận đủ vàng và giao đất cho ông T. từ năm 1992 đến nay. Ông T. đã cải tạo, san ủi mặt bằng, đầu tư sản xuất trên đất, không vi phạm quy định quy hoạch và bà L. không phản đối hay tranh chấp với ông T. Do đó, căn cứ mục n, tiểu mục 2.2 Nghị quyết 02/2004 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thì việc chuyển nhượng này được công nhận.

Tòa sơ thẩm và phúc thẩm công nhận cho ông T. được sử dụng phần đất này là có căn cứ.

Mặt khác, bà L. cho rằng tờ đơn xin chuyển nhượng, bán kết quả lao động, đầu tư do bị đơn cung cấp là giả mạo. Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP Cần Thơ đã giám định và kết luận: Dấu vân tay trong hợp đồng chuyển nhượng đất lập ngày 6-8-1999 là dấu vân tay của bà L.

PHƯƠNG LOAN

Nguồn PLO: https://plo.vn/phap-luat/dau-van-tay-khong-biet-noi-doi-958619.html