Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong khai thác thủy sản
Cùng với việc đóng mới, nâng cấp tàu thuyền, những năm qua, ngư dân trên địa bàn tỉnh đã mạnh dạn đầu tư mua sắm trang thiết bị, ứng. dụng nhiều công nghệ mới vào khai thác thủy sản. Qua đó, phương thức đánh bắt được đổi mới, hiệu quả sản xuất nâng cao, góp phần tăng thu nhập, giảm thiểu rủi ro cho ngư dân.
Hiệu quả vượt trội
"Giảm hao hụt đá lạnh lên đến 40% so với trước đây, giúp kéo dài thời gian chuyến biển thêm 5-7 ngày, chất lượng hải sản được bảo quản tốt hơn", đó là khẳng định của anh Lương Văn Hào, thuyền trưởng tàu cá xa bờ QT 93052TS, về hiệu quả của hầm bảo quản sản phẩm ứng dụng công nghệ CPF (Composite-polyurethane foam).
Theo anh Hào, hải sản khai thác xa bờ thường được bảo quản bằng đá lạnh ngay trên tàu. Tuy nhiên, hầm bảo quản truyền thống chủ yếu được đóng bằng gỗ, cao su và xốp mịn. Sau khoảng 2-3 năm sử dụng, hầu hết các tấm xốp cách nhiệt đều bị ngấm nước, giảm khả năng giữ nhiệt, đá lạnh tiêu hao nhanh, chất lượng sản phẩm giảm rõ rệt. Với công nghệ CPF, vật liệu sử dụng là Polyurethane (PU), có hệ số truyền nhiệt thấp, cấu tạo từ bọt xốp nhỏ, kín, nhẹ và cường độ chịu nén cao nên rất ít thấm nước. Hầm bảo quản sử dụng các tấm composite ghép thành khuôn tạo lớp vỏ bên ngoài, ở giữa là khoảng trống có chiều rộng từ 10-15cm. Sau đó phun vật liệu PU vào khoảng không đã cố định trước và tạo độ rung trên lớp vỏ để bọt xốp PU được nở đều bên trong. Ưu điểm của công nghệ CPF là vật liệu PU do được phun trực tiếp vào vị trí đã thiết kế làm hầm bảo quản nên hạn chế được các mối hàn nối, các lỗ bị rỗng, không hạn chế độ dày cách nhiệt. Do có kết cấu vững chắc nên rất thích hợp cho việc nâng cao độ bền cho hầm bảo quản và cả tàu cá. "Trước đây, một chuyến biển kéo dài khoảng 10 ngày, tàu cá của tôi lấy 1.000 cây đá thì hao hụt khoảng 500 cây. Nhưng hiện giờ, tỉ lệ hao hụt này chỉ còn khoảng 100 cây, giúp tăng thời gian bám biển thêm 5-7 ngày. Hầm giữ lạnh tốt, hải sản được bảo quản tốt nên giá bán cũng cao hơn", anh Hào cho hay.

Anh Lương Văn Hào (ngoài cùng bên trái) giới thiệu hầm bảo quản sản phẩm được làm bằng công nghệ CPF trên tàu cá của mình - Ảnh: L.A
Còn với ông Nguyễn Văn Ngọc, chủ tàu cá QT 92756TS, việc chủ động ứng dụng thiết bị lái tự động đã giúp ông giảm thời gian di chuyển đến ngư trường, bảo đảm an toàn cho các chuyến biển. Ông Ngọc cho biết, trong khai thác thủy sản xa bờ, khó khăn lớn nhất đối với ông cũng như những tàu cá khác đó là việc phải lái tàu liên tục trong hàng chục giờ đồng hồ, đôi lúc ngủ quên dễ mất lái, lệch tọa độ điểm đến, dẫn đến mất an toàn cho tàu cá, tiêu tốn nhiên liệu. Từ khi lắp đặt thiết bị lái tự động, ông chỉ cần chọn hướng đi hoặc cài đặt tọa độ điểm đến rồi để máy tự điều khiển tàu cá đến đúng tọa độ với quãng đường ngắn nhất. Qua đó, không chỉ bảo đảm sức khỏe cho người lái mà còn giảm thời gian di chuyển tới ngư trường, tiết kiệm nhiên liệu, tối đa hóa lợi nhuận cho mỗi chuyến biển.
Theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Hữu Vinh, những năm gần đây, ngư dân trên địa bàn tỉnh đã mạnh dạn áp dụng các trang thiết bị hiện đại trong khai thác thủy sản như: Máy định vị vệ tinh trên tàu cá; máy dò cá bằng sóng siêu âm như dò đứng, dò ngang và dò chụp; máy ra đa để quản lý lưới, tránh va trên biển; máy nhận dạng tự động AIS để bảo đảm an toàn cho người và tàu cá khi hoạt động trên biển; máy thông tin liên lạc tầm xa; thay thế đèn sợi đốt, đèn halogen bằng đèn điện tử LED để tăng vùng chiếu sáng và tiết kiệm nhiên liệu; lắp đặt tời thủy lực giúp giảm sức lao động của ngư dân... "Nhìn chung, các tiến bộ kỹ thuật này đã mang lại hiệu quả rõ rệt như giúp tăng sản lượng từ 10%-15%, giảm chi phí nhiên liệu từ 20%-30%, chất lượng hải sản được nâng cao, giảm tổn thất sau thu hoạch. Qua đó, góp phần hiện đại hóa đội tàu cá, dịch chuyển từ nghề cá truyền thống sang nghề cá hiện đại, có trách nhiệm", ông Vinh cho biết.
Tiếp tục đồng hành với ngư dân
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Hữu Vinh cho biết, việc ứng dụng công nghệ hiện đại, các tiến bộ kỹ thuật mới vào khai thác thủy sản vẫn còn một số hạn chế như: Chi phí đầu tư ban đầu khá cao trong khi tiềm lực tài chính của ngư dân còn hạn chế; trình độ tiếp cận công nghệ của ngư dân chưa đồng đều, một số ngư dân còn e ngại khi sử dụng các thiết bị mới, công nghệ cao. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng nghề cá còn thiếu đồng bộ, đặc biệt là các cảng cá; tín hiệu thiết bị giám sát hành trình tàu cá ở một số thời điểm còn chưa ổn định, vẫn còn tình trạng mất kết nối...

Việc ứng dụng công nghệ giúp ngư dân vươn khơi bám biển dài ngày - Ảnh: L.A
Việc ứng dụng khoa học công nghệ trong khai thác và bảo quản hải sản là giải pháp căn cơ để nâng cao hiệu quả sản xuất, bảo vệ nguồn lợi thủy sản và môi trường biển, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, góp phần cùng với cả nước tháo gỡ thẻ vàng của Ủy ban châu Âu. Do đó, thời gian tới, ngành Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục triển khai, nhân rộng các mô hình hiệu quả như đèn LED chuyên dụng, công nghệ CPF, tời thủy lực, lái tự động... kết hợp với chuyển đổi số trong quản lý và truy xuất nguồn gốc sản phẩm khai thác. Tham mưu các chính sách hỗ trợ, ưu đãi tín dụng giúp ngư dân có điều kiện đầu tư, nâng cấp tàu cá, từng bước hiện đại hóa đội tàu khai thác xa bờ. Đồng thời tiếp tục đầu tư nâng cấp hạ tầng nghề cá, đặc biệt là hệ thống cảng cá, khu neo đậu; hệ thống tiếp nhận, xử lý dữ liệu giám sát tàu cá, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý, theo dõi và xác nhận nguồn gốc hải sản. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho ngư dân bám biển dài ngày, nâng cao sản lượng đánh bắt, chất lượng sản phẩm, giảm được tổn thất sau thu hoạch; bảo đảm an toàn cho tàu cá của ngư dân khi hoạt động trên biển trước những diễn biến phức tạp của thời tiết, góp phần vào công tác chống khai thác bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU).
"Sở Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục đồng hành với ngư dân, tạo điều kiện thuận lợi để ngư dân khai thác hiệu quả, bảo quản tốt, tiêu thụ thuận lợi. Từ đó hướng đến phát triển nghề cá hiện đại, bền vững và nâng cao giá trị gia tăng", ông Vinh khẳng định.











