Để cán bộ, đảng viên luôn là 'tế bào sinh tồn' của Đảng - Bài 1: Cán bộ, đảng viên trong kết cấu tổ chức và dòng chảy lịch sử của Đảng
Trải qua gần một thế kỷ xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo nên dòng chảy cách mạng vinh quang với bao thăng trầm và gian khó. Trong tiến trình ấy, mỗi cán bộ, đảng viên không chỉ là sản phẩm của lịch sử, mà còn là chủ thể kiến tạo lịch sử vẻ vang của dân tộc với vai trò là những 'hạt nhân' trong kết cấu tổ chức của Đảng - nơi hội tụ ý chí, tài năng và phẩm chất cách mạng của Đảng.
Lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của cán bộ, đảng viên
Trong lý luận Mác - Lênin, Đảng Cộng sản là tổ chức chính trị tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, được hình thành từ nhu cầu khách quan của thực tiễn phát triển phong trào cách mạng. Đảng không chỉ là sản phẩm của điều kiện kinh tế - xã hội, mà còn là kết quả của trình độ giác ngộ lý luận và sự tự tổ chức của giai cấp công nhân dưới ánh sáng Chủ nghĩa Mác - Lênin. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”[1] và “Chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”[2].
Điều đó có nghĩa rằng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phụ thuộc trước hết vào chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên - những người trực tiếp mang lý luận của Đảng gắn với thực tiễn cách mạng, tổ chức hành động và dẫn dắt quần chúng. Trong cấu trúc tổ chức của Đảng kiểu mới do V.I.Lênin khởi xướng, người đảng viên không đơn thuần là người tham gia sinh hoạt, mà phải là hạt nhân tổ chức, là chiến sĩ tiên phong có lý tưởng, phẩm chất và kỷ luật nghiêm, có khả năng vận động, thuyết phục và tổ chức quần chúng cách mạng.
Theo đó, bản chất của Đảng không nằm trong hình thức hay khẩu hiệu, mà chính là sự kết tinh trí tuệ, bản lĩnh và hành động cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên - những con người cụ thể, trong những điều kiện cụ thể, đang trực tiếp xây dựng và hiện thực hóa sứ mệnh lịch sử của Đảng. Đội ngũ này không chỉ cấu thành tổ chức, mà còn quyết định bản chất chính trị, năng lực, sức mạnh, uy tín, sự tồn vong của Đảng.

Ảnh minh họa / Vietnam+
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, lãnh tụ Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo những luận điểm cốt lõi ấy của Chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt nhấn mạnh vai trò trung tâm của cán bộ, đảng viên trong xây dựng Đảng. Người coi cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, khi nhiều lần nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”[3], “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”[4]. Không chỉ dừng lại ở sự khẳng định vai trò, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh mối quan hệ hữu cơ giữa chất lượng đảng viên với sức mạnh tổ chức cơ sở Đảng, Người chỉ rõ: “Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”[5].
Những quan điểm trên thể hiện một cách nhất quán nguyên lý “Lấy con người làm trung tâm trong xây dựng tổ chức Đảng”. Đội ngũ cán bộ, đảng viên chính là nơi phản chiếu bản chất của Đảng, phản ánh khả năng của Đảng trong việc gắn lý luận với thực tiễn, gắn đường lối với hành động, gắn Đảng với nhân dân.
Cán bộ, đảng viên - những người kiến tạo, dẫn dắt cách mạng Việt Nam
Lịch sử cách mạng Việt Nam là bản trường ca bất diệt, được khắc sâu bằng xương máu, trí tuệ và bản lĩnh thép của những người cộng sản chân chính. Từ mùa Xuân năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cho đến hành trình đấu tranh giành độc lập, thống nhất, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, mỗi bước ngoặt lịch sử đều in đậm dấu ấn của đội ngũ cán bộ, đảng viên - những người tiên phong đi đầu, mang sứ mệnh mở đường, dẫn lối, giữ vững ngọn cờ cách mạng; mang trong tim khát vọng độc lập dân tộc cho Tổ quốc và cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Những người mở đường, dẫn lối cho cách mạng Việt Nam.Ngay từ buổi bình minh của cách mạng, khi dân tộc còn chìm trong đêm dài nô lệ của chế độ thuộc địa nửa phong kiến, chính những cán bộ, đảng viên thế hệ đầu tiên đã âm thầm gieo hạt giống đỏ, cấy vào lòng nhân dân khát vọng đổi thay. Nguyễn Ái Quốc và sau này là Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai cùng rất nhiều tên tuổi khác, là những người đã thức tỉnh, đưa ánh sáng Chủ nghĩa Mác - Lênin đến với dân tộc Việt Nam.
“Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”[6]. Với bước ngoặt khi tìm ra chân lý đó, Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên mở đường cho Chủ nghĩa Mác - Lênin thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam gắn bó với sự nghiệp của giai cấp vô sản thế giới, mở đường cho những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam sau này. Những đảng viên tiên phong ấy không chỉ truyền lý tưởng, mà còn mang theo ngọn lửa cách mạng, thắp sáng cả chân trời tự do. Sự dấn thân thầm lặng nhưng vĩ đại ấy đã làm nên một lớp cán bộ, đảng viên mưu trí, dũng cảm, bất khuất, tận trung với nước, tận hiếu với dân.
Tháng 8-1945, cách mạng thành công chỉ sau 15 ngày tổng khởi nghĩa, nhưng phía sau kỳ tích ấy là 15 năm bền bỉ, kiên trung của biết bao cán bộ, đảng viên - những hạt nhân nòng cốt đã âm thầm gây dựng phong trào, tập hợp, tổ chức lực lượng, giữ vững niềm tin cách mạng giữa lòng quần chúng. Từ rừng sâu, núi cao đến phố thị, đồng quê..., họ hiện diện như những trụ cột ý chí, lặng thầm nhưng quyết liệt, hoạt động trong gian khó nhưng không khuất phục, luôn giữ vững lập trường và lan tỏa lý tưởng cộng sản. Chính họ đã kiến tạo nền móng chính trị - tư tưởng vững chắc, khơi dậy tinh thần yêu nước, hun đúc lòng căm thù giặc và niềm tin tất thắng cho nhân dân, tạo nên bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử đấu tranh giành độc lập, lật đổ chế độ thực dân nửa phong kiến, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hiện thân của bản lĩnh, trí tuệ, lý tưởng và quyết tâm, khát vọng độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng ta không chỉ là trung tâm lãnh đạo chiến lược, mà còn là động lực tinh thần, hun đúc, khơi dậy và phát huy ý chí đoàn kết của toàn dân tộc. Sức mạnh ấy được lan tỏa và chuyển hóa thành hành động cụ thể thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên - những người giữ vai trò hạt nhân chính trị trên từng chiến tuyến. Ở mỗi thời khắc cam go, trên mỗi vị trí then chốt và mặt trận trọng yếu, cán bộ, đảng viên luôn là lực lượng nòng cốt, trực tiếp đối diện với thử thách, kiên cường bám trụ, giữ vững trận địa tư tưởng, truyền niềm tin và quy tụ, tổ chức lực lượng quần chúng cùng hành động.
Từ khắp các chiến trường, hậu phương, hay trên bàn đàm phán quốc tế và cả trong những nhà tù được ví như “địa ngục trần gian” của kẻ thù..., hình ảnh người cán bộ, đảng viên luôn gắn liền với tinh thần tiên phong, sẵn sàng hy sinh, không chỉ trong vai trò chỉ huy, mà cả trong hành động chiến đấu cụ thể. Họ là những người không chỉ truyền đạt mệnh lệnh của Đảng, mà còn hiện thân sinh động cho bản lĩnh, trí tuệ, lý tưởng và quyết tâm chiến thắng của cách mạng. Và để có được độc lập, tự do cho Tổ quốc, cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, đã có biết bao cán bộ, đảng viên anh dũng hy sinh nơi chiến trường hoặc mang thương tật suốt đời.
Đổi mới - mệnh lệnh từ trái tim người cán bộ, đảng viên.Khi đất nước đối mặt với những khủng hoảng, cán bộ, đảng viên tiếp tục là lực lượng tiên phong trong việc tháo gỡ những điểm nghẽn thể chế, xốc dậy niềm tin, kiến tạo tư duy và hành động đổi mới. Công cuộc đổi mới từ năm 1986 là minh chứng. Trước những thực tiễn “phá rào” sinh động, nhiều cán bộ, đảng viên đã nhạy bén và dũng cảm “mở rào” để dẫn lối đất nước vào công cuộc đổi mới. Vượt qua những lúng túng, hoài nghi, phải đối mặt với bao áp lực, thách thức và cả rủi ro chính trị trong chuyển đổi mô hình phát triển, chính họ, những cán bộ, đảng viên, bằng bản lĩnh chính trị vững vàng, bằng niềm tin vào lý tưởng cộng sản và khát vọng vươn lên đã góp phần quan trọng làm sáng tỏ đường lối, đưa chủ trương đổi mới vào cuộc sống, đặt nền móng cho sự chuyển mình của cả đất nước.
Hạt nhân trung thành, tiên phong đưa dân tộc “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, vai trò của cán bộ, đảng viên tiếp tục khẳng định là yếu tố then chốt trong việc hiện thực hóa đường lối, chủ trương của Đảng trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Đại đa số cán bộ, đảng viên, với bản lĩnh chính trị vững vàng, tư duy đổi mới, tinh thần trách nhiệm và sự gắn bó mật thiết với nhân dân đã trở thành lực lượng nòng cốt kiến tạo nên những đột phá trong quản trị nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Chính họ là những người trực tiếp chuyển hóa tầm nhìn chiến lược của Đảng thành chính sách cụ thể, hành động thực tiễn; là cầu nối giữa ý Đảng và lòng dân, giữa thể chế và hiệu quả phát triển.
Trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ, đòi hỏi cấp thiết đặt ra không chỉ là duy trì ổn định, tăng trưởng, mà còn phải khơi dậy khát vọng phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng. Trước yêu cầu đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người đảm nhiệm trọng trách ở vị trí hoạch định chiến lược, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc... tiếp tục khẳng định vai trò trung tâm trong tư duy, kiến tạo và tổ chức thực hiện những quyết sách lớn của Đảng.
Với bản lĩnh chính trị vững vàng, tư duy biện chứng, nhạy bén trước xu thế thời đại, tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương đã thống nhất và ban hành nhiều chủ trương mang tính cách mạng, đặt nền móng vững chắc cho tiến trình phát triển đất nước. Từ chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với chuyển đổi số, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; đến các đột phá trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; sắp xếp lại tổ chức bộ máy gọn nhẹ, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đặc biệt, Việt Nam đã thể hiện bản lĩnh, trí tuệ và tầm vóc trên các diễn đàn khu vực và quốc tế, xử lý linh hoạt, hiệu quả nhưng kiên định mục tiêu chiến lược trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới, khu vực...
Chính từ tầm cao của những quyết sách ấy, được tổ chức triển khai hiệu quả bởi đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp, đất nước ta từng bước hình thành những trụ cột vững chắc về thể chế, con người và “thế trận” chính trị - xã hội - kinh tế - quốc phòng - an ninh - đối ngoại, sẵn sàng bước vào giai đoạn phát triển mang tính bứt phá. Đó không chỉ là bước tiến tiếp nối truyền thống, mà là sự khởi đầu cho kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, nơi mọi nguồn lực, tinh hoa và ý chí phát triển đều hội tụ, khơi dậy và lan tỏa. Trên hành trình ấy, cán bộ, đảng viên chính là những hạt nhân trung thành, tiên phong, vừa giữ gìn nền móng cách mạng, vừa mở đường cho tương lai phát triển vững bền của đất nước.
Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn đã khẳng định, cán bộ, đảng viên là những “tế bào” cấu thành nên sinh thể chính trị của Đảng. Chính họ bảo đảm cho Đảng có đủ sức sống, sức chiến đấu và khả năng thích ứng trong mọi hoàn cảnh lịch sử. Tuy nhiên, cơ thể sống không thể khỏe mạnh nếu tồn tại những “tế bào hư tổn”, Đảng không thể trong sạch, vững mạnh nếu trong đội ngũ cán bộ, đảng viên còn tồn tại những biểu hiện “chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí...”[7] như cảnh báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, cùng với việc tiếp tục khẳng định vai trò trung tâm, không thể thay thế của cán bộ, đảng viên trong cấu trúc tổ chức và vận hành của Đảng, điều quan trọng hơn lúc này là phải thẳng thắn nhìn lại thực trạng đội ngũ để phân tích, đánh giá, sàng lọc và nâng cao chất lượng từng “tế bào” một cách nghiêm túc, bài bản, toàn diện. Bởi, “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng”[8].
(Còn nữa)
[1] V.I.Lênin - Toàn tập, Tập 6, Nxb CTQGST, H.2005, tr.30
[2] Sđd, tr.32
[3] Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H.2011, tr.309
[4] Sđd, tr.280
[5] Sđd, Tập 15, tr.113
[6] Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG, H.2011, tr.563
[7] Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 11, Nxb CTQG, H.2011, tr.611
[8] Sđd, tr.301











