Đế chế Sumer ra đời và diệt vong như thế nào?
Nền văn minh Sumer là nền văn minh sớm nhất trong lịch sử loài người. Vị trí của nền văn minh Sumer chính là vùng Lưỡng Hà, nằm giữa 2 con sông Tigris và Euphrates, từ khoảng năm 4.500 đến 1.900 TCN.
Tới cuối thiên niên kỷ 4 TCN, nền văn minh Sumer bao gồm 23 thành bang lớn và 10 thành bang nhỏ độc lập, được ngăn cách bởi các con kênh và các bức tường biên giới bằng đá. Một thành bang có trung tâm là một ngôi đền được dành cho vị nam hay nữ thần bảo trợ đặc biệt của mình và được cai trị bởi một thầy tu tổng trấn (ensi) hay một vị vua (lugal) người có quan hệ sâu sắc với các địa điểm tôn giáo của thành bang. Các thành bang thường xuyên đánh chiếm lẫn nhau hay cũng có thể liên minh với nhau.
Nền văn minh của người Sumer có rất nhiều tiến bộ vượt bậc, vượt xa thời kỳ mông muội trước đó. Thậm chí người hiện đại ngày nay vẫn còn đang kế thừa nhiều di sản của người Sumer cổ đại. Một số “thuyết âm mưu” còn cho rằng nền văn minh Sumer được người ngoài hành tinh giúp đỡ (?)
Về giáo dục, người Sumer đã mở trường dạy học sau khi phát minh ra chữ viết vào cuối thiên niên kỷ thứ tư trước Công Nguyên (khoảng 3.150 TCN). Họ gọi trường học là “nhà của những tấm đất sét”, gọi thầy giáo là cha, học trò là con và phụ giảng là anh cả. Học trò bị phạt kỷ luật bằng roi hay bằng gậy.
Về chính trị và luật pháp, họ đã biết cách tổ chức các định chế dân chủ tương tự như lưỡng viện quốc hội: những tấm đất sét có niên đại 3.000 TCN ghi cuộc tranh luận trong buổi họp của những người đàn ông võ trang quyết định việc nên hòa hay chiến, tương tự như Hạ viện. Quyết định của buổi họp này phải được đưa lên Hội đồng các trưởng lão, trong đó ý kiến của vua là tối hậu, tương tự như Thượng viện. Họ tổ chức việc xét xử tội phạm thiếu nhi riêng rẽ với việc xét xử người lớn.
Người Sumer đã phát triển một hệ thống đo lường phức tạp vào khoảng năm 4.000 TCN. Hệ thống đo lường tiên tiến này dẫn tới sự ra đời của số học, hình học, và đại số. Từ khoảng năm 2.600 TCN trở về sau, người Sumer đã viết nhiều bảng tính nhân trên những bảng đất sét và đã giải các bài hình học và bài tính chia. Những dấu vết sớm nhất của chữ số Babylon cũng có từ giai đoạn này. Giai đoạn khoảng năm 2.700–2.300 TCN chứng kiến sự xuất hiện lần đầu của bảng tính, và một bảng gồm các cột liên tục phân định các trật tự liên tục của độ lớn của hệ thống số lục phân. Người Sumer là những người đầu tiên sử dụng một hệ thống số giá trị vị trí. Cũng có bằng chứng mang tính chất giai thoại rằng người Sumer có thể đã sử dụng một kiểu thước trượt trong việc tính toán thiên văn học. Họ là người đầu tiên tính ra diện tích của một hình tam giác và thể tích của một khối trụ.
Người Sumer đã chấp nhận một phương thức đời sống nông nghiệp có lẽ sớm ngay từ khoảng năm 5.000 – 4.500 TCN, họ đã thể hiện một số kỹ thuật nông nghiệp cơ bản, bao gồm thủy lợi có tổ chức, trồng cấy tập trung trên quy mô lớn, chuyên canh có sử dụng cày và sử dụng nhân công chuyên nghiệp. Họ trồng lúa mạch, đậu xanh, đậu lăng, lúa mì, chà là, hành, tỏi, rau diếp, tỏi tây và mù tạc. Người Sumer đánh bắt nhiều loại cá và săn bắt gà và linh dương.
Người Sumer cũng đã thuần hóa và chăn nuôi cừu, bò, dê, lợn. Người Sumer cũng có một mạng lưới thương mại cổ đại rất lớn tập trung quanh khu vực vịnh Ba Tư.
Các ngành công nghệ, thủ công nghiệp thời đó của Sumer cũng rất phát triển. Những ví dụ về công nghệ của người Sumer bao gồm: bánh xe, chữ hình nêm, số học và hình học, các hệ thống thủy lợi, những con tàu Sumer, lịch mặt trăng mặt trời, đồng, da, cưa, đục, búa, trụ chống, hàm thiếc, đinh, ghim, nhẫn trang sức, cuốc, rìu, dao, mũi giáo, đầu mũi tên, kiếm, hồ dính, dao găm, túi da đựng nước, túi, yên ngựa, giáp, ống tên, xe chiến, bao kiếm, giầy, dép sandal, lao móc và bia.
Người Sumer tin vào thuyết đa thần hay niềm tin ở nhiều thần linh. Không có một hệ thống thần linh cho toàn thể đế quốc; mỗi thành bang có vị thần bảo trợ, đền đài và vị vua thầy tu riêng biệt. Người Sumer có lẽ là những người đầu tiên ghi lại những đức tin của mình. Theo họ, con người đã được sinh ra từ đất sét và sống để phục vụ các vị thần, tức là con người phải phục vụ tôn giáo chứ không phải tôn giáo phục vụ con người.
Các công trình xây dựng dưới thời Sumer được làm bằng gạch bùn phẳng-lồi, không được trộn với vữa nên dễ bị xuống cấp theo thời gian. Người Sumer cũng có những công trình to lớn như Kim tự tháp – Đài chiêm tinh Ziggurat, một công trình mang tính chất tôn giáo – thiên văn thời kỳ đó.
Những cuộc chiến tranh hầu như liên tục giữa các thành bang Sumer trong 2000 năm đã giúp phát triển các kỹ thuật và công nghệ chiến tranh của Sumer tới một mức độ cao. Các đội quân Sumer gồm chủ yếu là bộ binh. Những lính bộ binh mang giáo, đội mũ trụ đồng và mang các tấm khiên bằng da hay liễu gai. Những người lính cầm giáo được sử dụng trong đội hình giống với đội hình Phalanx, vốn đòi hỏi việc huấn luyện và kỷ luật; điều này cho thấy rằng người Sumer có thể đã sử dụng các chiến binh chuyên nghiệp. Người Sumer cũng sử dụng xe ngựa và xe bò như những chiến xa chiến đấu cơ động.
Năm 1.940 TCN, người Elamite xâm chiếm Sumer và tiến hành cướp phá các thành bang Sumer. Sau đó, đến triều đại Hammurabi của Babylonia, người Babylonia thống nhất các vùng đất Lưỡng Hà, người Sumer diệt vong. Khoảng năm 1.700 TCN, người Sumer bị đồng hóa với người Assyria và Babylonia.