Đề nghị chỉ cho lấn biển từ đường mực nước triều cao trung bình nhiều năm ra phía biển
Như Người Đô Thị đã thông tin, Bộ Tài nguyên và môi trường đang đề nghị xây dựng Nghị định của Chính phủ về lấn biển. Trong hai phương án đưa ra, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị lựa chọn phương án hoạt động lấn biển có phạm vi thực hiện từ đường mực nước triều cao trung bình nhiều năm ra phía biển, ngoại trừ hoạt động lấn biển phục vụ quốc phòng an ninh.
Chưa có quy định cụ thể đối với dự án lấn biển
Theo diễn trình của Bộ Tài nguyên và môi trường, hoạt động lấn biển có thể phân thành nhiều loại. Trong đó, xét về mục đích có lấn biển để xây đê kè chắn sóng, ngăn nước biển, phòng chống xói lở bờ biển; xây cảng biển; lấn biển tạo quỹ đất (làm khu đô thị, khu dân cư mới, làm khu nghỉ dưỡng, khách sạn); lấn biển để trồng rừng ngập mặn, làm khu nuôi trồng thủy sản; lấn biển tạo bãi tắm; xây đảo nhân tạo... Ngoài ra, dự án lấn biển có thể phân loại thành: lấn biển phục vụ quốc phòng, an ninh; vì lợi ích quốc gia, công cộng; vì mục đích kinh tế.
Về nguồn vốn, có hoạt động lấn biển do chủ đầu tư sử dụng ngân sách nhà nước; hoạt động lấn biển không sử dụng ngân sách nhà nước; hoạt động lấn biển có yếu tố nước ngoài (chủ đầu tư là tổ chức, cá nhân nước ngoài; dự án có vốn nước ngoài). Hoạt động lấn biển có thể là một phần hoặc toàn bộ nội dung của một dự án đầu tư.
Hiện nay, pháp luật đã có các quy định liên quan đến lấn biển để xây đê kè chắn sóng, ngăn nước biển, phòng chống xói lở bờ biển; xây cảng biển; lấn biển để trồng rừng ngập mặn (Luật đê điều, Bộ luật hàng hải, Luật lâm nghiệp và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành). Tuy nhiên, chưa có quy định yêu cầu cụ thể đối với các dự án có hoạt động lấn biển. Riêng đối với hoạt động lấn biển phục vụ quốc phòng, an ninh có tính đặc thù, nhất là trong việc xem xét, quyết định cho phép thực hiện để bảo đảm bí mật quốc gia.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, ranh giới phân định biển và đất liền được hiểu là đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm. Tuy nhiên, thực tế thì nước biển dâng đến đường mực nước triều cao; khoảng cách từ đường mép nước triều kiệt trung bình nhiều năm đến đường mực nước triều cao trung bình nhiều năm có những nơi rất lớn, ở các vùng đồng bằng, châu thổ như các tỉnh đồng bằng sông Hồng (Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình) hay đồng bằng sông Cửu Long (Trà Vinh, Sóc Trăng, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau), khoảng cách này đến vài km.
Trong khi đó, các hoạt động liên quan đến lấn biển chủ yếu từ đường mực nước triều cao ra phía biển; khu vực trong phạm vi từ đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm đến đường mực nước triều cao là nơi tập trung các hệ sinh thái, độ đa dạng sinh học cao, nhạy cảm… Đây cũng là nơi chịu tác động, ảnh hưởng lớn nhất từ các hoạt động của con người cũng như ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nước biển dâng; nơi diễn ra các hiện tượng xói lở bờ biển, bồi tụ; nơi trọng yếu về quốc phòng, an ninh...
Trong hai phương án đề xuất:
Phương án 1: Hoạt động lấn biển được quy định trong Nghị định là hoạt động có phạm vi thực hiện từ đường mép nước triều kiệt trung bình nhiều năm ra phía biển, ngoại trừ hoạt động lấn biển phục vụ quốc phòng an ninh.
Theo quy định pháp luật hiện hành, ranh giới phân định biển và đất liền được hiểu là đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm. Tuy nhiên, thực tế thì nước biển dâng đến đường mực nước triều cao. Khoảng cách từ đường mực nước triều kiệt đến mực nước triều cao trung bình nhiều năm về phía đất liền là rất lớn và đây cũng là nơi tập trung các hệ sinh thái, độ đa dạng sinh học cao, nhạy cảm; là nơi chịu tác động, ảnh hưởng lớn nhất từ các hoạt động của con người cũng như ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nước biển dâng; nơi diễn ra các hiện tượng xói lở bờ biển, bồi tụ; nơi trọng yếu về quốc phòng, an ninh...
Hiện nay, quy định pháp luật chưa đầy đủ về phạm vi diễn ra hoạt động lấn biển và gây chồng chéo với phạm vi hành lang bảo vệ bờ biển đã được quy định từ đường mực nước biển triều cao trung bình nhiều năm về phía đất liền.
Phương án 2: Hoạt động lấn biển được quy định trong Nghị định là hoạt động có phạm vi thực hiện từ đường mực nước triều cao trung bình nhiều năm ra phía biển ngoại trừ hoạt động lấn biển phục vụ quốc phòng an ninh.
Phương án này bảo vệ, duy trì sự toàn vẹn của các hệ sinh thái từ đường mực nước triều cao ra phía biển. Đảm bảo sự thống nhất trong các quy định về phạm vi điều chỉnh.
Trên cơ sở đánh giá tác động đến môi trường, kinh tế, xã hội, thủ tục hành chính, hệ thống pháp luật của từng phương án, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị lựa chọn Phương án 2.
Cần kiểm soát chặt chẽ các dự án lấn biển
Theo báo cáo đánh giá tác động sơ bộ một số nội dung đề nghị xây dựng Nghị định quy định về lấn biển, những năm gần đây ngày càng có nhiều dự án lấn biển ra đời. Nhiều dự án lấn biển quy mô lớn đã và đang được thực hiện. Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị thu được (là giải pháp để mở rộng quỹ đất, phát triển kinh tế - xã hội; giải pháp chủ động ứng phó với tình trạng xói lở bờ biển, nước biển dâng…) thì hoạt động lấn biển cũng có rất nhiều vấn đề:
Các công trình, hoạt động lấn biển có thể làm thay đổi điều kiện tự nhiên, địa hình, cảnh quan; ảnh hưởng, làm thay đổi chế độ thủy động lực của khu vực, làm thay đổi dòng chảy ven bờ, gây bồi lắng, sạt lở ở khu vực lân cận và gây xói lở bờ, làm mất an toàn cho chính các công trình; hoạt động lấn biển cũng có thể gây ra tác động không nhỏ đến hệ sinh thái, đa dạng sinh học và các nguồn lợi, tác động tới đời sống của người dân ven biển.
Việc quai đê, lấn biển phục vụ cho phát triển nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản chủ yếu ở các vùng cửa sông lớn giàu phù sa và đào hút cát nuôi tôm trong vùng đất cát phục vụ phát triển thủy sản đã và đang tác động đáng kể đến tài nguyên và môi trường ven biển. Việc mở rộng đầm tự phát, làm cho nhiều loài thủy sinh, động vật ven biển, cửa sông giảm đáng kể.
Tại các khu vực lấn biển, chất thải sinh hoạt từ các khu đô thị, khu dân cư và các chất thải khác của các hoạt động sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, công nghiệp, dịch vụ có khả năng gây ô nhiễm trên diện rộng, làm suy thoái môi trường và các hệ sinh thái biển ở các khu vực lân cận. Chưa kể đến nhu cầu vật liệu san lấp phục vụ hoạt động lấn biển có thể dẫn tới tình trạng khai thác đất, cát bừa bãi, trái phép, ảnh hưởng, hủy hoại môi trường nơi khác.
Các dự án có hoạt động lấn biển gây những tác động, ảnh hưởng đến sinh kế, việc làm, chỗ ở của người dân khu vực lấn biển; phá vỡ quy hoạch về hạ tầng, giao thông, y tế, giáo dục. Thực tế vừa qua cho thấy, có những dự án có hoạt động lấn biển mà chủ yếu là các dự án bất động sản đã “quây” mặt biển và đường ra biển như là “của riêng”, cản trở quyền tiếp cận của người dân với biển, ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân nơi đây, hạn chế tiềm năng du lịch biển.
Do chưa thực hiện, giải quyết tốt các vấn đề trên nên một số dự án có hoạt động lấn biển đã gây tác động, ảnh hưởng đến cảnh quan, môi trường, hệ sinh thái, gây xói lở bờ biển; có dự án phải ngừng triển khai do chưa tính toán kỹ càng về kỹ thuật, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội; có dự án phải xem xét lại do ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh; có dự án đã vấp phải sự phản đối của người dân địa phương khi triển khai...
Tình trạng san lấp, lấn biển tràn lan, đã phá vỡ cảnh quan, quy hoạch; lợi dụng, biến tướng các dự án được phê duyệt để tiến hành lấn biển trái phép; việc buông lỏng quản lý, không kiểm soát chặt chẽ hoạt động lấn biển diễn ra ở một số địa phương, gần đây nổi lên một số vấn đề khá phức tạp như ở Quảng Ninh (Hạ Long, Cẩm Phả), Hải Phòng (Cát Bà), Thanh Hóa (Sầm Sơn), Khánh Hòa (Nha Trang), Đà Nẵng, Quảng Nam (Hội An), TP.HCM (Cần Giờ),...
Trong khi đó, pháp luật hiện hành gần như chưa có các quy định cụ thể đối với hoạt động này. Pháp luật đất đai chỉ quy định nguyên tắc chung về việc khuyến khích hoạt động khai hoang, lấn biển. Pháp luật về đầu tư chỉ quy định thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, cấp giấy chứng nhận đầu tư, quyết định đầu tư, trong đó có quy định liên quan đến thẩm quyền đối với một số dự án lấn biển có quy mô lớn.
Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo quy định khai hoang, lấn biển trong phạm vi hành lang bảo vệ bờ biển chỉ được thực hiện khi có văn bản chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, cơ bản hoạt động lấn biển lại không thuộc phạm vi hành lang bảo vệ bờ biển vì nằm ngoài đường mực nước triều cao trung bình trong nhiều năm.
Pháp luật bảo vệ môi trường có quy định một số dự án lấn biển có quy mô lớn phải thực hiện đánh giá tác động môi trường nhưng không có yêu cầu quy định cụ thể đối với các dự án có hoạt động lấn biển. Việc xem xét, thẩm định, quyết định cho phép thực hiện các hoạt động liên quan đến lấn biển đối với đê, kè biển, cảng biển, lấn biển để trồng rừng ngập mặn đã được quy định rõ ràng hơn trong Luật đê điều, Bộ luật hàng hải, Luật lâm nghiệp và các văn bản liên quan. Tuy nhiên, các yêu cầu về kỹ thuật cũng chưa được chú trọng quy định.
Pháp luật hiện hành chưa quy định trách nhiệm quản lý nhà nước và nhiệm vụ cụ thể của các cấp, các ngành liên quan đối với hoạt động lấn biển, đặc biệt không có các quy định yêu cầu cụ thể đối với hoạt động lấn biển để bảo vệ môi trường, cảnh quan, hệ sinh thái, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phát triển bền vững.
Có thể nhận thấy, thiếu các quy định cụ thể điều chỉnh đối với hoạt động lấn biển là một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng hoạt động lấn biển gây lo ngại, nếu không kịp thời bổ sung sẽ gây ra những phức tạp, hệ lụy chưa lường hết được trong thời gian tới.
Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã yêu cầu “Kiểm soát chặt chẽ các dự án quai đê, lấn biển”.