Để sản xuất và xuất khẩu rau quả tăng trưởng bền vững
Sản xuất và xuất khẩu nông sản của Việt Nam những năm qua đã đạt tiến bộ về nhiều mặt, cả tổ chức sản xuất, quy mô, quy trình sản xuất an toàn, sự liên kết hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ, nhất là xuất khẩu, xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại…
Nhờ vậy, giá trị và thặng dư xuất khẩu nông sản liên tục tăng (2015 là 30,5 tỷ USD với thặng dư 7 tỷ USD, 2016 là 32,2 tỷ USD với thặng dư 7,5 tỷ USD, 2017 là 36,2 tỷ USD với thặng dư 8,5 tỷ USD, 6 tháng đầu năm 2018 xuất khẩu nông sản đạt 19,4 tỷ USD thặng dư 3,9 tỷ USD), thị trường mở rộng theo từng năm, nhiều thị trường rất khó tính cũng đã chấp nhận nhiều loại nông sản của ta (nông sản Việt đã có mặt tại 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, có những thị trường rất khó tính như Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ, Úc, New Zealand,…).
Riêng về mặt hàng rau - quả, tăng trưởng từ xuất khẩu rau quả mấy năm gần đây tăng bình quân 30%/năm, một con số thật sự ấn tượng, năm 2017 đã vượt kim gạch xuất khẩu gạo và dầu thô; 6 tháng đầu năm 2018 tiếp tục tăng trưởng vững chắc, dự tính đạt 4 tỷ USD trong năm nay.
Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp nước ta còn đó “những khâu yết hầu mà chúng ta còn đang rất yếu”, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Nguyễn Xuân Cường đã nhấn mạnh như vậy tại diễn đàn Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIV. Theo Bộ trưởng, đó là sản xuất nhỏ lẻ, tích tụ đất đai khó khăn (8,6 triệu hộ nông dân, gần 70 triệu miếng ruộng nhỏ), tính liên kết yếu, công nghiệp và công nghệ chế biến chưa tương xứng với sản xuất, quản lý nhà nước về mọi mặt còn nhiều bất cập, thị trường trong nước chưa được coi trọng, thị trường xuất khẩu bấp bênh, hàng hóa chưa có thương hiệu, chất lượng, mẫu mã, bao bì chưa tương xứng với tầm vóc, doanh nghiệp tham gia chưa nhiều.
Những điểm yếu mà Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT nêu cộng thêm với tư duy sản xuất theo phong trào của đại đa số nông dân khiến một số nông sản ở một số khu vực nhỏ cung vượt cầu, đẩy giá tụt sâu, đẩy người nông dân vào tình trạng thua lỗ. Để hỗ trợ người sản xuất, cộng đồng đã vào cuộc. Nhưng tiêu thụ nông sản bằng “lòng trắc ẩn” chỉ là giải pháp cấp cứu.
Để không còn phải “giải cứu”, cơ quan chức năng cần xây dựng quy hoạch vùng sản xuất từng loại sản phẩm trên cơ sở bám sát thị trường; theo dõi diễn biến thị trường để có thể kịp thời khuyến cáo người sản xuất như dự báo thời tiết dài hạn và ngắn hạn. Về phía người sản xuất, cần thay đổi tư duy sản xuất theo phong trào bằng hợp tác, liên kết, tuân thủ hướng dẫn của cơ quan chức năng về thực hiện quy hoạch, quy trình sản xuất an toàn.
Một vấn đề nữa rất cần sự quan tâm của cả cơ quan chức năng và người sản xuất là, tuy nông sản của ta đã có mặt ở hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới nhưng thị trường Trung Quốc vẫn là thị trường lớn nhất (đã có tới 87.000 tấn vải thiều được thu hoạch ở tỉnh Bắc Giang xuất khẩu, riêng xuất sang thị trường Trung Quốc đạt 86.500 tấn, tương ứng với 99,4%. Theo số liệu của Bộ Công Thương, khoảng 70% nông sản của ta được xuất qua Trung Quốc, chủ yếu theo đường tiểu ngạch). Đặt vấn đề vậy vì, các cụ ta thường nói, để hạn chế rủi ro “trứng nên chia vào nhiều giỏ”.
Để không phụ thuộc quá lớn vào một thị trường, cả nhà nước, doanh nghiệp và nhà nông phải đồng bộ vào cuộc trong việc khai thác tối đa các hiệp định thương mại (FTA) thế hệ mới, nhất là các hiệp định thương mại đa phương như Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) nhằm mở rộng thị trường theo cả chiều sâu và bề rộng. Đồng thời, cùng với sản xuất theo tín hiệu thị trường còn cần chú ý đến xây dựng, phát triển thương hiệu, thiết kế tem nhãn, bao bì đúng quy chuẩn, tiêu chuẩn, bắt mắt, đáp ứng yêu cầu từng thị trường. Đồng thời có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện phát triển công nghiệp chế biến, hạn chế tiêu thụ nông sản tươi.