Để thương mại hóa sản phẩm khoa học vào cuộc sống: Đừng chỉ ngồi trong phòng nghiên cứu
Đã có nhiều kết quả nghiên cứu khoa học được chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp sản xuất, phục vụ cuộc sống, như thực phẩm chức năng NaturenZ, Nanocurcumin, Fuicodan; lai tạo giống, sản xuất vaccine, phân bón; sơn chống cháy; xử lý rác, nước thải, chất thải y tế v.v...
"Tuy nhiên, việc thương mại hóa sản phẩm khoa học công nghệ còn gặp nhiều khó khăn bởi các sản phẩm mới muốn tồn tại trên thị trường phải có sự đổi mới sáng tạo, đáp ứng đủ điều kiện tài chính. Mặc dù các nhà khoa học được tài trợ nhiều về tài chính nhưng việc đưa sản phẩm ra thị trường vẫn gặp không ít rào cản" - Đó là ý kiến của TS. Hà Phương Thư - Trưởng Phòng Vật liệu Nano y sinh, Viện Khoa học vật liệu, Viện Hàn lâm Khoa học công nghệ Việt Nam – tại buổi tọa đàm “Phát triển và thương mại hóa công nghệ ở Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam”
Buổi tọa đàm do Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam tổ chức vào sáng nay (14/10), nhằm tạo ra diễn đàn mở để các nhà khoa học, doanh nghiệp, nhà quản lý chia sẻ kinh nghiệm, đề xuất giải pháp thúc đẩy quá trình thương mại hóa công nghệ của Viện một cách hiệu quả, góp phần gia tăng chi số đổi mới sáng tạo của đất nước.
PGS.TS. Chu Hoàng Hà – Phó Chủ tịch Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (Ảnh: Minh Thúy)
Nhà đầu tư chưa mặn mà với sản phẩm khoa học công nghệ
Tại buổi tọa đàm, PGS.TS. Chu Hoàng Hà – Phó Chủ tịch Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam – cho hay: Trong thời đại công nghệ phát triển thì khoa học công nghệ là yếu tố quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững của các quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, khoa học công nghệ đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước. Để phát triển kinh tế thì phải thương mại hóa các sản phẩm công nghệ và đưa các sản phẩm này ra thị trường. Thời gian qua Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã chuyển giao nhiều sản phẩm công nghệ cho các doanh nghiệp.
Điển hình như các thực phẩm chức năng NaturenZ, Nanocurcumin, Fuicodan,… (ngành dược liệu), lai tạo giống, sản xuất vaccine, phân bón,… (ngành nông nghiệp), vật liệu mới ứng dụng trong an ninh quốc phòng, sơn chống cháy, các vật liệu mới thân thiện môi trường (ngành công nghiệp), công nghệ sinh - hóa xử lý rác, nước thải sinh hóa, chất thải y tế, khu công nghiệp.
“Ở các nước phát triển, các viện, trường đại học đều được đầu tư đầy đủ để nghiên cứu khoa học công nghệ. Tuy nhiên, ở Việt Nam số doanh nghiệp muốn đầu tư cho các nhà nghiên cứu khoa học công nghệ chưa nhiều và số doanh nghiệp đã có đầu tư cũng chưa đáp ứng nhu cầu của các nhà khoa học” – ông Hà nói.
TS. Hà Phương Thư - một nhà khoa học điển hình về thương mại hóa thành công nhiều sản phẩm
Không dễ để đưa sản phẩm ra thị trường
Theo TS. Hà Phương Thư, việc thương mại hóa sản phẩm gặp nhiều khó khăn bởi các sản phẩm mới muốn tồn tại trên thị trường phải có sự đổi mới sáng tạo, đảm bảo điều kiện tài chính. Mặc dù các nhà khoa học được tài trợ về tài chính nhưng việc đưa sản phẩm ra thị trường vẫn còn nhiều rào cản.
"Để tiếp cận với các doanh nghiệp nhằm thương mại hóa sản phẩm, sản phẩm phải thực sự hiệu quả. Nhóm nghiên cứu của tôi đi theo hướng riêng nên tăng cường truyền thông cho sản phẩm để tiếp cận thị trường. Nếu chỉ ngồi trong phòng nghiên cứu thì sản phẩm công nghệ sẽ không thiết thực với đời sống. Thị trường khoa học công nghệ khá mới mẻ, nhưng để phát triển sản phẩm, thương mại hóa sản phẩm công nghệ thì các nhà nghiên cứu cần đặc biệt chú ý.” – TS. Thư chia sẻ.
Tọa đàm thương mại hóa sản phẩm khoa học công nghệ (Ảnh: Minh Thúy)
Thị trường khoa học công nghệ gồm cung và cầu. “Cung” là nhà nghiên cứu, tạo ra công nghệ và “cầu” chính là doanh nghiệp và người dân. Muốn thị trường khoa học công nghệ sôi động thì việc kết nối giữa nhà nghiên cứu và doanh nghiệp là vô cùng quan trọng.
Là một nhà nghiên cứu khoa học dấn thân để trở thành startup và có nhiều kinh nghiệm tiếp xúc với các nhà đầu tư, bà Nguyễn Thu Hồng – Giám đốc Công ty Cổ phần thực phẩm Cam Ranh, Trưởng Câu lạc bộ startup Khánh Hòa – nhấn mạnh: Tính sáng tạo đối với các nhà khoa học là vô cùng quan trọng. Sau khi học tập ở Nhật Bản và trở về Việt Nam, tôi đã phát triển sản phẩm chả cá và hộp đựng chả cá không mùi ứng dụng kỹ thuật của Nhật Bản.
Qua quá trình nghiên cứu sản phẩm chả cá, bà Hồng nhận thấy nhà đầu tư chính là thị trường của các nhà khoa học. Nhà đầu tư đầu tư vào tố chất của nhà khoa học. “Các nhà khoa học thực ra không cần tìm nhà đầu tư mà hãy phát ra tín hiệu để nhà đầu tư tìm thấy mình. Bản thân các nhà khoa học phải có tâm và chủ động đầu tư vào chính mình” – bà Hồng nói.
Gỡ “khó” cho nhà nghiên cứu và doanh nghiệp
Trước thực tế nhiều nhà đầu tư chưa mặn mà với việc thương mại hóa sản phẩm khoa học công nghệ, TS. Phạm Hồng Quất – Cục trưởng Cục Phát triển thị trường – Doanh nghiệp và khoa học công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ - cho rằng: Việc nghiên cứu khoa học công nghệ khó bao nhiêu thì chính sách thúc đẩy thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu khoa học công nghệ ra thị trường khó bấy nhiêu. Không chỉ vậy, thủ tục giải ngân cho hoạt động thương mại hóa sản phẩm khoa học công nghệ rườm rà, tốn nhiều thời gian, công sức, khiến không ít nhà khoa học cảm thấy “nản lòng”.
TS. Phạm Hồng Quất – Cục trưởng Cục Phát triển thị trường – Doanh nghiệp và khoa học công nghệ (áo trắng cầm mic ở giữa) (Ảnh: Minh Thúy)
Để giải quyết vấn đề này, các nhà khoa học cùng doanh nghiệp cần liên kết, hợp tác, chia sẻ thông tin về sản phẩm, đồng thời, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cho nhà khoa học, có nguồn thu bền vững. Điều quan trọng nhất chính là giải quyết vướng mắc về thủ tục giải ngân.
PGS.TS. Phan Tiến Dũng – Phó Trưởng Ban Ứng dụng triển khai công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Đồng tình với ông Quất, PGS.TS. Phan Tiến Dũng – Phó Trưởng Ban Ứng dụng triển khai công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam – cho hay: Tư duy của nhà khoa học và doanh nghiệp khác nhau, nên rất cần có sự hợp tác, thấu hiểu, để chuyển giao công nghệ. Vấn đề vướng mắc lớn nhất trong quá trình chuyển giao nghiên cứu khoa học công nghệ, thương mại hóa sản phẩm khoa học công nghệ chính là là cơ chế tài chính và chính sách. Từ các kết quả khoa học công nghệ, việc triển khai thương mại hóa phải được các doanh nghiệp đánh giá, xem xét. Nhà nước có thể cấp tiền cho startup để giúp các nhà khoa học nghiên cứu sản phẩm đưa ra thị trường có tính sáng tạo, hiệu quả cao.