Đề xuất bỏ án tử hình đối với một số tội danh: Nêu cao trách nhiệm xã hội trong xử lý tội phạm

Trong khuôn khổ Dự án sửa đổi Bộ luật Hình sự, Bộ Công an vừa trình Quốc hội đề xuất bỏ án phạt tử hình, thay bằng hình phạt tù chung thân không xét giảm án đối với một số tội danh. Đây là đề xuất phù hợp với thông lệ, xu hướng của thế giới và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời, thể hiện tính nhân văn, nhân đạo pháp luật.

Giảm thiểu hệ lụy, khép lại nỗi đau

Từ bỏ hoặc giảm mức độ khắt khe của một biện pháp chế tài, trấn áp bao giờ cũng khó hơn là duy trì hoặc siết chặt biện pháp đó hay đặt thêm một biện pháp mới. Lý do đơn giản là trước sự biến mất của một công cụ bảo vệ, người ta có nỗi lo tự nhiên về giảm sút mức độ an ninh, an toàn đối với cuộc sống. Bên cạnh đó là thói quen coi việc dỡ bỏ một biện pháp trừng phạt là việc có tác dụng giảm bớt sự bù đắp mất mát mà nạn nhân của hành vi phạm tội gánh chịu và đấy là điều không công bằng.

Xử lý tội phạm không nên được coi là việc giải quyết mối quan hệ đền bù giữa người phạm tội và nạn nhân, theo quy tắc gây mất mát bao nhiêu thì đền bấy nhiêu. Mô hình chế tài báo phục nguyên sơ, tiếng la-tinh là lex talionis, theo nguyên "mắt đền mắt, răng đền răng", chỉ hợp với một xã hội rời rạc với giềng mối lỏng lẻo, chủ yếu do giao thông liên lạc, kết nối bị trở ngại, khó khăn vì chỉ dựa vào các phương tiện thô sơ. Với nhận thức thô thiển của người chỉ mới vượt lên cao hơn chút ít so với động vật sống theo bản năng, người bị thiệt hại trong xã hội tổ chức kém thời cổ đại chỉ nhận thấy có người gây thiệt hại là đối tượng để trút căm giận do mất mát. Ở góc độ tâm lý, chế tài báo phục là kiểu đền bù ảo tưởng: người bị chế tài có thể bị lấy đi khỏi thân thể cái mình đã lấy của nạn nhân khi phạm tội; nhưng nỗi đau do sự tổn thất vật chất, tinh thần của nạn nhân thì vẫn y nguyên.

Hướng dẫn dạy nghề cho phạm nhân tại Trại giam Quyết Tiến (Tuyên Quang)

Hướng dẫn dạy nghề cho phạm nhân tại Trại giam Quyết Tiến (Tuyên Quang)

Tử hình là chế tài hình sự nặng nhất, có tác dụng tước mạng sống của người phạm tội. Hình phạt này thường được áp dụng một khi người phạm tội có hành vi xâm hại tính mạng của người khác hoặc vi phạm nghiêm trọng những điều cấm kỵ. Vào thời cổ, tử hình có thể được thực hiện theo nhiều cách mà mức độ man rợ tùy thuộc vào khả năng suy nghĩ của người đề ra biện pháp trừng phạt: voi giày, ngựa xé; lóc từng miếng thịt; cho vào vạc dầu, ném đá... Theo thời gian, người ta dần bớt tìm cách gửi gắm lòng hận thù của mình vào hình thức kết liễu mạng sống của người bị kết án tử và có xu hướng chỉ làm sao kết liễu cuộc sống của người này, cho rồi. Máy chém, giá treo cổ được chế tạo để phục vụ mục tiêu đó. Trong xã hội đương đại, những thứ này được thay bằng xử bắn, cho ngồi ghế điện hoặc tiêm thuốc độc.

Sau khi hình phạt tử hình được thực hiện, người muốn xử phạt cho thỏa chí mà còn sống sẽ không còn có trước mặt mình gương mặt, hình hài sống động của người phạm tội để nhìn vào đó mà căm hận. Có thể không ít trường hợp người đòi trừng phạt cảm thấy hả dạ; nhưng chỉ vậy thôi.

Về mặt xã hội, hình phạt tử hình được cho là hình phạt mang tính răn đe cao, thậm chí cao nhất: mọi người nhìn vào đó mà dè chừng trong hành vi; người có dự định phạm tội nhìn vào đó mà có thể chùn bước, chùn tay. Tuy nhiên, chẳng có bằng chứng nào, cũng chẳng có nghiên cứu khoa học hoặc điều tra xã hội nghiêm túc nào cho thấy hình phạt tử hình của tác dụng giảm bớt tội phạm.

Bảng tổng kết xã hội của việc xử lý tội phạm bằng hình phạt tử hình có thể được mô tả ngắn gọn: trước khi án tử được thi hành, có một gia đình bị tổn thất nặng do hành vi tội phạm, là gia đình nạn nhân; sau khi thi hành án tử hình, có thêm một gia đình nữa - gia đình của bị án - chịu tổn thất nặng. Còn hiệu quả bù đắp tổn thất đối với xã hội, gia đình, cá nhân liên quan, thì không rõ.

Sau khi được cảm hóa và học nghề, nhiều phạm nhân trở thành nghệ nhân có tay nghề cao

Sau khi được cảm hóa và học nghề, nhiều phạm nhân trở thành nghệ nhân có tay nghề cao

Đáng nói nữa là xã hội, cộng đồng thường không chú ý đến tình cảnh của lực lượng thực thi bản án tử hình. Đây là những con người được cho là nhân danh Luật pháp, Công lý để chấm dứt sự tồn tại của người bị kết án. Họ thực hiện công việc theo phận sự, theo quy trình; họ không làm gì sai với xã hội, với lương tâm khi xuống tay lấy đi cuộc sống của người khác. Nhưng rốt cuộc, họ cũng là người chứ không phải là những chiếc máy vô tri. Thực tiễn ghi nhận, hầu như không có ai, từ người làm công tác an ninh cho đến nhân viên y tế, giữ được trạng thái tâm thần thăng bằng, bình thường sau thời gian thực hiện công việc thi hành án tử hình. Ký ức về ánh mắt, cử chỉ, thái độ của người bị thi hành án tử hình ở thời điểm cận kề cái chết luôn là nỗi ám ảnh đối với họ. Rất nhiều người tham gia thi hành án tử hình mắc chứng hoang tưởng, thậm chí điên loạn. Không chỉ họ mà cả gia đình họ phải gánh chịu hệ lụy từ tác động của công việc đặc thù này.

Rèn luyện con người để sống thiện lương

Không khó để hiểu bỏ hình phạt tử hình đã và đang là xu thế trong thế giới đương đại. Đa số quốc gia đã bỏ hình phạt này. Một số nước duy trì, nhưng chỉ để cảnh báo, không áp dụng trên thực tế. Việc đề xuất bỏ án tử hình ở Việt Nam, trước mắt đối với một số tội danh, là phù hợp với xu thế chung.

Trước đề xuất này, thách thức đặt ra không phải là ngăn chặn nguy cơ gia tăng tội phạm: có hay không có án tử hình thì nhà chức trách, xã hội vẫn miệt mài với công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, xây dựng xã hội an toàn. Vấn đề là một khi bỏ án tử hình thì vết thương xã hội do hành vi phạm tội gây ra được hàn gắn như thế nào.

Để giải quyết vấn đề, cần xuất phát từ tư tưởng chủ đạo. Theo đó, cả người phạm tội và người bị hại đều là thành viên xã hội; hành vi của họ, đặc biệt là hành vi của người phạm tội, là sản phẩm của xã hội. Việc xử lý hậu quả của hành vi đó thuộc trách nhiệm của xã hội, chứ không của riêng ai.

Trước hết, cần xoa dịu nỗi đau mất mát của nạn nhân, của gia đình họ bằng sự chủ động đồng hành, đùm bọc, chăm sóc của cộng đồng, của nhà chức trách, đặc biệt là thông qua vai trò của chính quyền địa phương và các đoàn thể. Cần có những biện pháp thiết thực hỗ trợ việc sắp xếp lại, tổ chức lại cuộc sống kinh tế của gia đình trong trường hợp mất thành viên vốn là lao động tạo thu nhập; hỗ trợ các thành viên ổn định điều kiện học tập, điều kiện về công ăn việc làm.

Một buổi lao động của các phạm nhân

Một buổi lao động của các phạm nhân

Đối với người thực hiện hành vi phạm tội, cần phải đặt họ thường xuyên đối mặt với sự phán xét của lương tâm, của đạo lý trong quá trình thực hiện án phạt tù. Bên cạnh các sinh hoạt theo chế độ giam giữ, tù nhân phải tương tác với chuyên gia tâm lý để được uốn nắn nhận thức, từ đó thấu hiểu tính chất sai trái của hành vi mình đã thực hiện. Phải làm thế nào để trước khi nằm xuống từ giã cõi đời theo cách bình thường, người phạm tội biết rõ và nhìn nhận từ tận đáy lòng về việc mình có lỗi đối với người bị hại, với gia đình họ, cả với gia đình của mình và với xã hội.

Tất nhiên, để ngăn chặn hoặc ít nhất là giảm thiểu các vụ vi phạm pháp luật, đặc biệt là phạm pháp nghiêm trọng, cần quan tâm giáo dục con người thật kỹ, từ trong gia đình, trong nhà trường về lòng nhân ái, bao dung, trung thực, yêu chuộng công lý, lẽ phải, lẽ công bằng. Phải làm thế nào để lối sống đẹp, văn minh, thanh lịch luôn được cổ vũ và thực hành phổ biến.

Rèn luyện con người để sống thiện lương và cải tạo kẻ bất lương thành con người lương hảo là công thức hành động để xây dựng xã hội an toàn và văn minh. Một khi chú tâm thực hiện công thức này, người ta tự nhiên sẽ không còn phải bận tâm với câu hỏi liệu bỏ hay không bỏ án tử hình là đối xử với nhân văn hay không nhân văn với tội phạm.

Viện sĩ, PGS.TS NGUYỄN NGỌC ĐIỆN

Nguồn CA TP.HCM: http://congan.com.vn/tin-chinh/de-xuat-bo-an-tu-hinh-doi-voi-mot-so-toi-danh-neu-cao-trach-nhiem-xa-hoi-trong-xu-ly-toi-pham_178653.html