Đề xuất mới về phân loại đơn vị hành chính

Theo dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định về phân loại đơn vị hành chính, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị hành chính loại đặc biệt. Các đơn vị hành chính còn lại được phân thành 3 loại (loại I, loại II, loại III). Dự thảo cũng đẩy mạnh thực hiện chủ trương đẩy mạnh phân cấp, phân quyền.

Trung tâm Phục vụ hành chính công xã Việt Tiến, tỉnh Hưng Yên phục vụ nhân dân. (Ảnh PHẠM HÀ)

Trung tâm Phục vụ hành chính công xã Việt Tiến, tỉnh Hưng Yên phục vụ nhân dân. (Ảnh PHẠM HÀ)

Bộ Nội vụ đã xây dựng dự thảo Nghị định về phân loại đơn vị hành chính (sau đây gọi tắt là dự thảo Nghị định), với 4 chương, 16 điều.

Cần thiết để triển khai Luật Tổ chức chính quyền địa phương

Bộ Nội vụ cho biết, ngày 12/6/2025, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 202/2025/QH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh năm 2025 và ngày 16/6/2025, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 34 Nghị quyết về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của 34 tỉnh, thành phố năm 2025.

Theo đó, cả nước có 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh (6 thành phố và 28 tỉnh), 3.321 đơn vị hành chính cấp xã (2.621 xã, 687 phường và 13 đặc khu).

Số lượng và quy mô của đơn vị hành chính cấp tỉnh và đơn vị hành chính cấp xã đã có biến động lớn so với trước thời điểm sắp xếp (trước tháng 6/2025). Cụ thể như sau:

Cả nước hiện có 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh (6 thành phố và 28 tỉnh), 3.321 đơn vị hành chính cấp xã (2.621 xã, 687 phường và 13 đặc khu).

Về cấp tỉnh, giảm 29 đơn vị hành chính cấp tỉnh.

Diện tích tự nhiên trung bình của đơn vị hành chính cấp tỉnh là 9.743 km2, tăng 4.484 km2 (tăng 85,30%). Đơn vị hành chính cấp tỉnh có diện tích lớn nhất (Lâm Đồng) là 24.243,13 km2 (so với tỉnh có diện tích lớn nhất trước thời điểm tháng 6/2025 là 16.486,5 km2 (Nghệ An), tăng 7.756,63 km2 (47,05%).

Quy mô dân số trung bình của đơn vị hành chính cấp tỉnh là 3.362.519 người, tăng 1.547.826 người (tăng 85,3%); đơn vị hành chính cấp tỉnh có quy mô dân số lớn nhất (Thành phố Hồ Chí Minh) là 14.668.098 người (so với cấp tỉnh có quy mô dân số lớn nhất trước thời điểm tháng 6/2025 là 9.966.166 người (Thành phố Hồ Chí Minh), tăng 4.701.932 người (47,17%).

Quá trình sắp xếp các đơn vị hành chính năm 2025 đã làm thay đổi căn bản quy mô địa bàn và dân số trung bình, vượt xa ngưỡng chuẩn được xây dựng trong Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 (dưới đây gọi tắt là Nghị quyết số 1211).

Bên cạnh đó, việc hình thành “đặc khu” là loại hình đơn vị hành chính hoàn toàn mới, nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết số 1211.

Nếu tiếp tục áp dụng các tiêu chí, thang điểm và ngưỡng phân loại cũ của Nghị quyết số 1211 thì sẽ dẫn đến tình trạng kết quả phân loại không còn sát với thực tế, làm sai lệch đánh giá về vị trí, vai trò, mức độ phát triển của từng địa phương, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến việc hoạch định chính sách, phân bổ nguồn lực và tổ chức bộ máy chính quyền.

Cùng với đó, thực tiễn triển khai các quy định về phân loại đơn vị hành chính tại Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 (sửa đổi, bổ sung tại Nghị quyết số 27/2022/UBTVQH15) trong thời gian qua đã bộc lộ một số điểm bất cập, hạn chế cụ thể.

Thứ nhất, theo quy định tại Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13, hệ thống tiêu chí phân loại đơn vị hành chính hiện nay còn mang tính thiên lệch về quy mô, khi tập trung chủ yếu vào dân số, diện tích và số lượng đơn vị trực thuộc (riêng hai tiêu chí dân số và diện tích có thể chiếm tới hơn một nửa tổng số điểm), trong khi nhóm tiêu chí phản ánh trình độ phát triển kinh tế-xã hội lại dừng ở các chỉ số truyền thống như tỷ lệ điều tiết ngân sách, thu nhập bình quân, tỷ lệ nghèo, tăng trưởng kinh tế… mà chưa bao quát các yếu tố “động” ngày càng có vai trò quyết định đối với hiệu quả quản trị địa phương, như tỷ lệ tăng năng suất lao động, các chỉ số phản ánh mức độ chuyển đổi số, cải cách thủ tục hành chính của chính quyền địa phương.

Điều này dẫn tới thực tế là các địa phương có dân số đông, diện tích lớn thường được xếp loại cao mà chưa phản ánh đúng nỗ lực cải cách, đổi mới trong quản trị và nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân.

Ngược lại, những địa phương quy mô nhỏ nhưng triển khai hiệu quả chuyển đổi số, chính quyền điện tử, cải cách thủ tục hành chính… lại khó cải thiện phân loại.

Thứ hai, theo quy định tại Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 giao Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận phân loại cấp tỉnh, Bộ trưởng Nội vụ quyết định với cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định với cấp xã; đồng thời yêu cầu Ủy ban nhân dân các cấp phải lập hồ sơ trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua trước khi gửi cơ quan có thẩm quyền và sau đó phải trải qua bước thẩm định của Hội đồng Trung ương, dẫn tới quy trình nhiều tầng nấc, mất nhiều thời gian, chi phí và chưa thể hiện rõ tinh thần phân cấp, phân quyền.

Thứ ba, Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 chỉ quy định việc phân loại đơn vị hành chính trong những trường hợp thành lập, nhập, chia, điều chỉnh địa giới mà không thiết lập cơ chế bắt buộc rà soát định kỳ, dẫn tới tình trạng nhiều địa phương “được xếp rồi để đó”, giữ nguyên loại hình hàng chục năm dù có biến động lớn về dân số, kinh tế-xã hội, năng lực quản trị, khiến kết quả phân loại không còn phản ánh đúng thực trạng, giảm giá trị sử dụng trong hoạch định chính sách, bố trí nguồn lực và không tạo động lực để chính quyền địa phương cải cách, đổi mới.

Từ những căn cứ chính trị, pháp lý và thực tiễn nêu trên, việc xây dựng Nghị định của Chính phủ quy định về phân loại đơn vị hành chính là cần thiết nhằm kịp thời triển khai thi hành Luật Tổ chức chính quyền địa phương, tạo lập hành lang pháp lý để các cơ quan, tổ chức của chính quyền địa phương thực hiện phân loại đơn vị hành chính, làm cơ sở để hoạch định chính sách phát triển kinh tế-xã hội; thu hút đầu tư, nâng cao chất lượng và điều kiện sống trên địa bàn đơn vị hành chính và xây dựng tổ chức bộ máy, chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức của chính quyền địa phương phù hợp với từng loại đơn vị hành chính.

Việc ban hành Nghị định nhằm cụ thể hóa các quy định tại Điều 3 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 72/2025/QH15, bảo đảm đầy đủ cơ sở pháp lý để thực hiện việc phân loại đơn vị hành chính trong điều kiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương đã chuyển sang 2 cấp: cấp tỉnh và cấp xã. Đồng thời, xác lập khung pháp lý thống nhất, minh bạch và khả thi cho việc xác định tiêu chí, trình tự, thủ tục, thẩm quyền và cơ chế cập nhật kết quả phân loại đơn vị hành chính theo định kỳ.

Qua đó, bảo đảm việc phân loại phản ánh sát thực trạng quy mô, điều kiện phát triển, đặc thù vùng miền và năng lực vận hành của chính quyền địa phương, làm căn cứ quan trọng cho các công việc sau:

(1) Hoạch định chính sách phát triển kinh tế-xã hội phù hợp với từng loại hình đơn vị hành chính;

(2) Xây dựng tổ chức bộ máy, phân cấp quản lý và bố trí nguồn lực (nhân lực, tài lực) theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả;

(3) Thiết kế chế độ, chính sách tiền lương, phụ cấp, biên chế đối với đội ngũ cán bộ, công chức của chính quyền địa phương một cách hợp lý, công bằng và phù hợp với điều kiện thực tiễn.

Ngoài 2 đơn vị hành chính loại đặc biệt, phân chia các đơn vị hành chính thành 3 loại

Dự thảo Nghị định quy định về tiêu chí phân loại, khung điểm, cách tính điểm phân loại đơn vị hành chính và trình tự, thủ tục, thẩm quyền thực hiện việc phân loại đơn vị hành chính ở các cấp chính quyền địa phương, gồm cấp tỉnh và cấp xã, theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương với các nội dung cơ bản và điểm mới sau đây.

Văn bản dự thảo này cơ bản kế thừa hệ thống loại đơn vị hành chính đã được xây dựng và áp dụng ổn định trong thời gian dài. Theo đó, trừ thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị hành chính loại đặc biệt được xác định trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương, các đơn vị hành chính còn lại được phân thành 3 loại (loại I, loại II, loại III), được thực hiện bằng phương thức tính điểm (dưới 60 điểm đạt loại III, từ 60 đến 75 điểm đạt loại II, trên 75 điểm đạt loại I).

Tuy nhiên, nội dung phân loại đô thị đối với từng loại hình đơn vị hành chính được điều chỉnh cho phù hợp với quan điểm, nguyên tắc xây dựng dự thảo Nghị định và bối cảnh thực tiễn, cụ thể như sau:

Trừ Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị hành chính loại đặc biệt, các đơn vị hành chính còn lại được phân thành 3 loại (loại I, loại II, loại III), được thực hiện bằng phương thức tính điểm (dưới 60 điểm đạt loại III, từ 60 đến 75 điểm đạt loại II, trên 75 điểm đạt loại I).

Một là, đối với thành phố trực thuộc trung ương, dự thảo Nghị định quy định thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị hành chính loại đặc biệt, các thành phố trực thuộc trung ương là đơn vị hành chính loại I.

Đề xuất này dựa theo Hiến pháp và Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2025, thành phố trực thuộc Trung ương là đô thị trung tâm vùng hoặc động lực phát triển quốc gia, có vị trí chiến lược toàn diện (trong đó thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị hành chính loại đặc biệt đã được quy định trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương).

Thực tế, các thành phố như Huế, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ đã đáp ứng đầy đủ các tiêu chí cao nhất về dân số, diện tích, kinh tế-xã hội, hạ tầng, tài chính và quản trị. Do đó, thủ tục phân loại chỉ mang tính hình thức. Việc quy định các thành phố này đương nhiên thuộc loại I vừa bảo đảm ổn định, minh bạch, giảm thủ tục, vừa tạo cơ sở pháp lý cho chính sách đặc thù phù hợp với vai trò của các thành phố này.

Hai là, đối với tỉnh, dự thảo Nghị định quy định tỉnh được phân thành 3 loại (loại I, II, III) dựa trên tổng số điểm của 5 nhóm tiêu chuẩn, cụ thể:

Tiêu chuẩn quy mô dân số: tối đa 20 điểm, tối thiểu 10 điểm;

Tiêu chuẩn diện tích tự nhiên: tối đa 20 điểm, tối thiểu 10 điểm;

Tiêu chuẩn số lượng đơn vị hành chính trực thuộc: tối đa 10 điểm, tối thiểu 6 điểm;

Tiêu chuẩn điều kiện kinh tế-xã hội (gồm 11 tiêu chí thành phần): tối đa 40 điểm, tối thiểu 18 điểm;

Tiêu chuẩn yếu tố đặc thù: tối đa 10 điểm, tối thiểu 0 điểm.

Ba là, đối với xã, dự thảo Nghị định quy định xã được phân thành 3 loại (loại I, II, III) dựa trên tổng số điểm của 4 nhóm tiêu chuẩn. Cụ thể:

Tiêu chuẩn quy mô dân số: tối đa 25 điểm, tối thiểu 15 điểm;

Tiêu chuẩn diện tích tự nhiên: tối đa 25 điểm, tối thiểu 15 điểm;

Tiêu chuẩn điều kiện kinh tế-xã hội (gồm 7 tiêu chí thành phần3): tối đa 40 điểm, tối thiểu 21 điểm;

Tiêu chuẩn yếu tố đặc thù: tối đa 10 điểm, tối thiểu 0 điểm.

Bốn là, đối với phường, dự thảo Nghị định quy định phường được phân thành 3 loại (loại I, II, III) dựa trên tổng số điểm của 4 nhóm tiêu chuẩn tương tự như đối với xã nhưng có điều chỉnh mức tối đa, tối thiểu của từng tiêu chí, tiêu chuẩn cho phù hợp đặc thù về quy mô dân số, diện tích tự nhiên và trình độ phát triển kinh tế-xã hội của phường.

Năm là, đối với đặc khu, dự thảo Nghị định quy định theo hướng, đối với đặc khu được phân loại đô thị thì áp dụng tiêu chuẩn phân loại của phường, các trường hợp còn lại áp dụng tiêu chuẩn phân loại của xã; đồng thời quy định điểm yếu tố đặc thù của đặc khu là 10 điểm (tối đa).

Sáu là, quy định về điểm ưu tiên: Ngoài hệ thống thang điểm theo các tiêu chí, tiêu chuẩn phân loại đơn vị hành chính nêu trên, dự thảo Nghị định quy định về điểm ưu tiên đối với các đơn vị hành chính có quy mô vượt trội (tỉnh, xã có diện tích tự nhiên từ 300% tiêu chuẩn theo quy định; phường có quy mô dân số từ 300% tiêu chuẩn theo quy định); đơn vị hành chính thuộc khu vực đặc biệt khó khăn hoặc đơn vị hành chính được xác định có vị trí, vai trò trung tâm phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh/thành phố hoặc khu vực liên xã, phường.

Việc quy định mức điểm ưu tiên (tối đa 10 điểm) là cơ chế nhằm bảo đảm các đơn vị hành chính có tính chất vượt trội, trọng yếu được quan tâm bố trí nguồn lực để đầu tư, phát triển và quản lý.

Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền

Về thẩm quyền, dự thảo Nghị định quy định thẩm quyền quyết định phân loại đơn vị hành chính cấp tỉnh là Bộ trưởng Nội vụ (quy định hiện hành là Thủ tướng Chính phủ). Thẩm quyền phân loại đơn vị hành chính cấp xã là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (giữ nguyên như hiện hành). Quy định này bảo đảm thực hiện chủ trương đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đồng thời khắc phục việc Thủ tướng Chính phủ quyết định các vấn đề cụ thể thuộc lĩnh vực chuyên môn của các bộ, ngành.

Về hồ sơ Đề án, dự thảo Nghị định quy định cụ thể thành phần hồ sơ Đề án, nguồn số liệu, cơ quan cung cấp và chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin, số liệu tại Đề án.

Đồng thời, dự thảo Nghị định bổ sung Phụ lục kèm theo về phương pháp thu thập, tính toán các tiêu chuẩn của tiêu chí phân loại đơn vị hành chính để bảo đảm tính thống nhất và thuận lợi cho quá trình tổ chức thực hiện.

Dự thảo Nghị định quy định trình tự, thủ tục phân loại đơn vị hành chính cho phù hợp với thẩm quyền quyết định phân loại, đồng thời đơn giản hóa thủ tục hành chính (cắt giảm thủ tục trình Hội đồng nhân dân cùng cấp xem xét, thông qua trước khi trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định).

Ngoài quy định về phân loại đơn vị hành chính sau khi thành lập, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính như hiện hành, dự thảo Nghị định bổ sung quy định định kỳ 5 năm kể từ thời điểm công nhận loại đơn vị hành chính, cơ quan có thẩm quyền lập hồ sơ phân loại đơn vị hành chính phải thực hiện rà soát để phân loại lại.

Quy định này giúp bảo đảm các tiêu chí luôn được đối chiếu, cập nhật, đồng thời tạo động lực để các địa phương nỗ lực cải thiện chất lượng quản trị, thúc đẩy chuyển đổi số, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân nhằm duy trì, hoặc nâng loại phân loại.

NGÂN ANH

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/de-xuat-moi-ve-phan-loai-don-vi-hanh-chinh-post907927.html